Plectropomus pessuliferus

Plectropomus pessuliferus
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Phân họ (subfamilia)Epinephelinae
Tông (tribus)Epinephelini
Chi (genus)Plectropomus
Loài (species)P. pessuliferus
Danh pháp hai phần
Plectropomus pessuliferus
(Fowler, 1904)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Plectropoma pessuliferum Fowler, 1904

Plectropomus pessuliferus là một loài cá biển thuộc chi Plectropomus trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1904.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh pessuliferus được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh: pessulus ("ít vạch, sọc") và fero ("mang theo"), hàm ý đề cập đến các dải sọc dọc màu sẫm ở hai bên của một vài cá thể trưởng thành của loài cá này.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ Đông Phi, P. pessuliferus được phân bố trải dài về phía đông đến FijiTonga, bao gồm một vài vùng biển thuộc khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương như ngoài khơi Zanzibar, bãi cạn Cargados Carajos, Sri Lankaquần đảo Chagos gần đó, quần đảo Andaman và Nicobar (Ấn Độ), bờ biển Myanmar, quần đảo Similan (Thái Lan) hay tại đảo Sumatra (Indonesia), ngược lên phía bắc đến Hồng KôngPhilippines;[1] gần đây được ghi nhận thêm ở ngoài khơi Bangladesh.[3]

P. pessuliferus sống tập trung ở những khu vực mà san hô phát triển trên các rạn viền bờ và trong đầm phá, có thể được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 147 m.[4]

Phân loại học

[sửa | sửa mã nguồn]

Những ghi nhận của P. pessuliferus trước đây ở Biển Đỏ thực chất là Plectropomus marisrubri, một loài rất giống về kiểu hình so với P. pessuliferus và được coi là một phân loài của P. pessuliferus. Nhưng theo kết quả nghiên cứu của Ma (2014) trong luận án Tiến sĩ của mình, P. marisrubri có rất nhiều chấm xanh trên má (khoảng 30–50), hơn đáng kể so với P. pessuliferus (khoảng 12 đốm trở xuống). Vây ngực của hai loài cũng có sự khác biệt về màu sắc, màu nâu sẫm và nhạt dần trở ra rìa ở P. marisrubri, nhưng ở P. pessuliferus thì vây ngực trong mờ, có màu trắng nhạt.[5]

Cũng dựa trên kết quả phân tích phát sinh loài của Ma và các cộng sự (2016) sau đó, P. pessuliferus lại không có quan hệ họ hàng trực tiếp với P. marisrubri, mà là loài chị em gần nhất với Plectropomus leopardus.[6]

P. pessuliferus cũng có khi bị xác định nhầm là Plectropomus maculatus, một loài cũng có nhiều chấm xanh óng phủ khắp cơ thể;[4] tuy nhiên, các chấm xanh ở đầu của P. maculatus thường kéo dài thành những vạch ngắn giúp phân biệt với P. pessuliferus và cả P. leopardus.

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở P. pessuliferus là 120 cm.[4] Loài này có màu đỏ cam đến nâu đỏ, dày đặc các chấm xanh lam trên cơ thể và các vây (đôi khi có những dải sọc dọc sẫm màu ở hai bên thân).

Số gai ở vây lưng: 7–8; Số tia vây ở vây lưng: 10–12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8; Số tia vây ở vây ngực: 16; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5.[4]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh bắt quá mức là mối đe dọa lớn đối với P. pessuliferus ở một số nơi trong khu vực phân bố, đặc biệt là Maldives, nơi loài này được xuất khẩu sang các thị trường Đông Nam Á, và đã ghi nhận sự suy giảm quần thể của P. pessuliferus ở đảo quốc này.[1]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Choat, J. H.; Amorim, P.; Law, C.; Ma, K.; Myers, R. F.; Nair, R.; Pollard, D. A.; Rhodes, K.; Russell, B.; Samoilys, M.; Suharti, S.; To, A. (2018). Plectropomus pessuliferus. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T118359431A100469254. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T118359431A100469254.en. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  2. ^ Christopher Scharpf (2021). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei: Family Serranidae (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 1 năm 2022. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2022.
  3. ^ Islam, Md; Rashed, Mohammad; Habib, Kazi (2020). “First record of roving coral grouper Plectropomus pessuliferus (Fowler, 1904) from Saint Martin's Island, Bangladesh based on Morphology and DNA Barcoding” (PDF). Bangladesh Journal of Fisheries Research. 32 (2): 293–301.
  4. ^ a b c d Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Plectropomus pessuliferus trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  5. ^ Ma, Ka Yan (2014). Patterns and processes of diversification in groupers (Family: Epinephelidae) (PDF) (Luận án Tiến sĩ). Đại học James Cook. tr. 121. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2022.
  6. ^ Ma, Ka Yan; Craig, Matthew Thomas; Choat, John Howard; van Herwerden, Lynne (2016). “The historical biogeography of groupers: Clade diversification patterns and processes”. Molecular Phylogenetics and Evolution. 100: 21–30. doi:10.1016/j.ympev.2016.02.012. ISSN 1055-7903.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
1-In-60 Rule: Quy Luật Giúp Bạn Luôn Tập Trung Vào Mục Tiêu Của Mình
1-In-60 Rule: Quy Luật Giúp Bạn Luôn Tập Trung Vào Mục Tiêu Của Mình
Quy luật "1-In-60 Rule" có nguồn gốc từ ngành hàng không.
Giới thiệu bộ kỹ năng của Childe trong Genshin Impact
Giới thiệu bộ kỹ năng của Childe trong Genshin Impact
Theo như bản cập nhật 1.1 sắp tới chúng ta sẽ những kỹ năng buff team cực kì mạnh từ Childe
Review game Kena: Bridge of Spirits
Review game Kena: Bridge of Spirits
Kena: Bridge of Spirits là một tựa game indie được phát triển bởi một studio Mỹ mang tên Ember Lab - trước đây là một hãng chuyên làm phim hoạt hình 3D và đã rất thành công với phim ngắn chuyển thể từ tựa game huyền thoại Zelda
[Next Comer - Limited Banner - Awakening AG] Factor Nio/ Awaken Nio - The Puppet Emperor
[Next Comer - Limited Banner - Awakening AG] Factor Nio/ Awaken Nio - The Puppet Emperor
Nio từ chối tử thần, xoá bỏ mọi buff và debuff tồn tại trên bản thân trước đó, đồng thời hồi phục 100% HP