Siêu mẫu

Gisele Bündchen, người mẫu được trả lương cao nhất thế giới từ năm 2003 đến năm 2016[1][2].

Siêu mẫu (tiếng Anh: supermodel, super-model[3][4][5][6][7] hay super model[8][9][10][11]) là những người mẫu thời trang cao cấp được trả lương cao, thường nổi danh trên khắp thế giới và thường có kinh nghiệm về thời trang cao cấp và làm người mẫu thương mại. Thuật ngữ này đã trở nên phổ biến và thường xuất hiện đặc biệt trong văn hóa đại chúng những thập niên thứ 80 và 90 của thế kỷ thứ 20.

Lịch sử hình thành và phát triển

[sửa | sửa mã nguồn]

Bắt nguồn

[sửa | sửa mã nguồn]

Cụm từ siêu mẫu (supermodel) được sử dụng sớm nhất vào năm 1891, trong một cuộc phỏng vấn với nghệ sĩ Henry Stacy Marks cho tờ tạp chí The Strand Magazine[12] Vào ngày 6 tháng 10 năm 1942, một nhà văn có tên Judith Cass đã sử dụng cụm từ super model cho một bài viết của cô trên tờ Chicago Tribune, với nhan đề "Super Models Are Signed for Fashion Show" (dịch "Những siêu mẫu đã ký hợp đồng cho show diễn thời trang").[13] Sau đó năm 1943, một nhân viên tên là Clyde Matthew Dessner đã sử dụng cụm từ "siêu mẫu" trong một cuốn sách dạy làm người mẫu có tên "Thế là bạn muốn trở thành người mẫu!", trong đó Dessner viết, "Cô ấy sẽ là một siêu mẫu, nhưng cô gái trong cô ấy sẽ giống như cô gái trong bạn - thật bình dị, nhưng đầy tham vọng và sẵn sàng trau dồi bản thân".[14][15] Theo cuốn Model: The Ugly Business of Beautiful Women (dịch :Người mẫu: Nền công nghiệp xấu xí của những phụ nữ xinh đẹp) soạn bởi Michael Gross, cụm từ supermodel được sử dụng lần đầu bởi Dessner vào những năm 1940.[16] Năm 1949, tạp chí Cosmopolitan đã nhắc đến Anita Colby, người mẫu được trả lương cao nhất mọi thời đại,[17] như một siêu mẫu : "Cô ấy từng là một siêu mẫu, một nữ diễn viên phòng vé tại SelznickParamount."[18] Vào ngày 18 tháng 10 năm 1959, Tờ Chinatown News ở Vancouver đã miêu tả Susan Chew như một "siêu mẫu".[19]

Lisa Fonssagrives tại nhà ga London Paddington năm 1951

Cụm từ "siêu mẫu" cũng từng được sử dụng một vài lần trên truyền thông vào những thập niên 1960 và 1970. Năm 1965, một cuốn bách khoa toàn thư có tựa đề American Jurisprudence Trials đã sử dụng cụm từ "siêu mẫu".[20] Vào ngày 21 tháng 3 năm 1967, tờ The New York Times nhắc đến Twiggy như một siêu mẫu;[21] Một bài báo số tháng 2 năm 1968 của tạp chí Glamour đã liệtckee tổng cộng 19 siêu mẫu; tờ The Chicago Daily Defender viết một bài có tựa đề "Nhà thiếp kế New Yorrk trở thành siêu mẫu" vào tháng một năm 1970; tờ The Washington Post và the Mansfield News Journal sử dụng cụm từ này năm 1971; và 1974, cả hai tờ Chicago TribuneThe Advocate đã sử dụng cụm từ này trong các bài viết của họ[22] American Vogue sử dụng tưg siêu mẫu để miêu tả Jean Shrimpton trong ấn bản phát hành ngày 15 tháng 10 năm 1965 và từ "supermodel" trên bìa tạp chí để mô tả Margaux Hemingway vào ấn bản ra ngày 1 tháng 9 năm 1975.[23] Hemingway cũng được gọi với danh xưng này trong ấn bản ngày 25 tháng bảy năm 1977 của tạp chí Time.[21] Tạp chí Jet cũng gọi Beverly Johnson là siêu mẫu trong ấn bản ngày 22 tháng 12 năm 1977.[24]

Người mẫu Janice Dickinson phát biểu rằng chính cô là người thai nghén cụm từ "siêu mẫu" vào năm 1979 là từ ghép của từ Supermanmodel nhưng thực sự không phải như vậy.[25] Trong buổi phỏng vấn với tờ Entertainment Tonight, Dickinson nói rằng một người mẫu của công ty cô tên là Monique Pilar của Elite Model Management, đã hỏi cô "Janice, cô nghĩ cô là ai, Superman (Siêu nhân) à ?" Cô ấy đáp Monique, "Không;... Tôi là một supermodel (Siêu mẫu), cưng ơi, và cô sẽ nhắc đến tôi như một siêu mẫu cũng như thành lập ngay một phòng siêu mẫu trong công ty chúng ta ngay". Dickinson cũng từng được cho là siêu mẫu đầu tiên trên thế giới.[25]

Tuy nhiên, cô Lisa Fonssagrives mới được công nhận rộng rãi là siêu mẫu đầu tiên trên thế giới, sự nghiệp của cô bắt đầu vào thập niên 1930.[26][27][28][29] Cô đã xuất hiện ở hầu hết các tạp chí thời trang lớn và những tạp chí phổ thông từ thập niên 1930 đến thập niên 1950, bao gồm Town & Country, Life, Vogue, tờ Vanity Fair gốc, Harper's Bazaar, and Time.[30] Evelyn Nesbit (sự nghiệp bắt đầu vào khoảng thập niên 1900)[31]Dorian Leigh (sự nghiệp vào khoảng năm 1944) cũng được xem là những siêu mẫu đầu tiên trong lịch sử,[32][33][34] cùng với Jean Shrimpton (đầu thập niên 1960),[35][36][37][38][39]Gia Carangi (cuối thập niên 1970).[40][41]

Nữ người mẫu tóc vàng người Hà Lan, Wilhelmina Cooper, đang giữ kỉ lục là người lên bìa American Vogue nhiều nhất, khoảng 27 hay 28 lần trong suốt thập niên 1950 và 1960 . Cooper cũng tiếp tục là người sáng lập Wilhelmina Models công ty quản lý và đào tạo người mẫu vào năm 1967.[42]

Nguồn gốc và sử dụng

[sửa | sửa mã nguồn]

Khái niệm supermodel (siêu mẫu) được Gianni Versace lần đầu đưa ra năm 1991 khi nhà tạo mẫu nổi tiếng này tập hợp một nhóm các cô - ngoài những tên tuổi trên còn có Cindy Crawford, Helena ChristensenStephanie Seymour - trình diễn trang phục của ông.[43] Những siêu mẫu thường làm việc cho những nhà thiết kế và nhãn hiệu thời trang hàng đầu. Họ có những hợp đồng và chiến dịch trị giá hàng triệu đô la. Họ được xem là những cái tên của mọi gia đình và được cả thế giới công nhận sự nghiệp người mẫu.[44][45][46][47] Họ xuất hiện trên bìa của nhiều tạp chí khác nhau như Vogue, Elle, Harper's BAZAAR, Numéro, GQ.... Claudia Schiffer đã nói, "Để trở thành một siêu mẫu, bạn phải xuất hiện trên bìa tạp chí khắp nơi trên thế giới cùng một lúc, để mọi người đều có thể nhận ra bạn"[48][49]. Được nhận ra ngay lập tức khi nhắc tên là một dấu hiệu của địa vị siêu mẫu trong ngành công nghiệp thời trang[43].

Xếp hạng siêu mẫu trên toàn thế giới

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Việc xếp hạng siêu mẫu dựa trên nhiều yếu tố trong đó bao gồm gu thẩm mỹ được ưa thích nhất định, cá tính của siêu mẫu, danh tiếng và thành công về thương mại. Dưới đây là danh sách những siêu mẫu thành công nhất mọi thời đại:
SIÊU MẪU
Gisele Bündchen
Kathy Ireland
Cindy Crawford
Tyra Banks
Iman
Heidi Klum
Elle Macpherson
Adriana Lima
Naomi Campbell
Candice Swanepoel
Alessandra Ambrosio
Christy Turlington
Linda Evangelista
Kate Moss
Helena Christensen
Claudia Schiffer
Rosie Huntington Whiteley

Siêu mẫu đầu tiên

[sửa | sửa mã nguồn]

Siêu mẫu thập niên 1960s–1970s

[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng hai năm 1968, một bài báo trên tạp chí Glamour miêu tả 19 người mẫu như những "siêu mẫu": Cheryl Tiegs, Veruschka, Lisa Palmer, Peggy Moffitt, Sue Murray, Twiggy, Sunny Harnett, Marisa Berenson, Gretchen Harris, Heide Wiedeck, Irish Bianchi, Hiroko Matsumoto, Anne de Zogheb, Kathy Carpenter, Jean Shrimpton, Jean Patchett, Benedetta Barzini, Claudia Duxbury và Agneta Frieberg.[22][59]

Vào thập niên 1970, một vài người mẫu nổi lên và tên tuổi của họ được công chúng dễ dàng ngày một nhận ra. Jule Campbell biên tập viên của tờ Sports Illustrated đã bỏ một cột báo của ấn phẩm Sports Illustrated Swimsuit Issue dành cho những người mẫu và mốt thời thượng lúc đó thay vào đó là chụp ảnh những người mẫu California "béo và khỏe" hơn,[60] và chú thích những hình ảnh đó với tên từng người, vô tình những cái tên này trở thành những cái tên của mọi nhà và xác lập ấn phẩm đồ bơi này là một cột mốc trong sự phát triển của siêu mẫu.[60]

Năm 1973, Lauren Hutton trở thành người mẫu đầu tiên nhận được một hợp đồng kếch xù từ một công ty mỹ phẩm, khi đó Revlon thuê cô quảng bá cho dòng sản phẩm Ultima của hãng.[61][62] Cô cũng xuất hiện trên bìa của Vogue 26 lần.[63] Iman cũng được xem là siêu mẫu da mầu đầu tiên tại khu vực Bắc Mỹ.[64]

Năm 1975, Margaux Hemingway đã ký một hợp đồng triệu đô vô tiền khoáng hậu trở thành gương mặt đại diện cho dòng nước hoa của Fabergé và cùng năm, cô xuất hiện trên bìa của tạp chí Time, được gọi với danh xưng một trong "những vẻ đẹp mới", đưa tên tuổi của những người mẫu thời trang vươn xa và được công nhận hơn.[65]

Anna Bayle, một người mẫu gốc Philipin đã nổi lên vào những năm 70, cô được xem là siêu mẫu châu Á đầu tiên.[66][67]

Donyale Luna là người mẫu da đen đầu tiên xuất hiện trên British Vogue, tháng 3 năm 1966.[68] Naomi Sims, cô thỉnh thoảng được nhắc đến như siêu mẫu da đen đầu tiên, đã trở thành người Mỹ gốc Phi đầu tiên lên bìa tờ Ladies' Home Journal, năm 1968.[69] Người mẫu Mỹ gốc Phi đầu tiên lên bìa American VogueBeverly Johnson in 1974.[70] Pat Cleveland, một người mẫu mỹ gốc phi nổi bật lúc đó cũng được mô tả như một trong những siêu mẫu da đen đầu tiên đặc biệt trong các ấn phẩm bản to của American Vogue André Leon Talley, trong một bài viết của ấn bản tháng sáu năm 1980 của tạp chí "Ebony",[71] và lặp lại trong hồi ký của báo này năm 2003.[72]

Siêu mẫu thập niên 1980s

[sửa | sửa mã nguồn]
Elle Macpherson, biệt danh "The Body" trên tạp chí Time

Tháng 10 năm 1981, tạp chí Life nhắc đến Shelley Hack, Lauren Hutton, và Iman với Revlon, Margaux Hemingway với Fabergé, Karen Graham với Estee Lauder, Cristina Ferrare với Max Factor, và Cheryl Tiegs với CoverGirl nhằm khen ngợi họ là "những gương mặt triệu đô" của ngành công nghiệp làm đẹp. Những người mẫu này đã đàm phán những hợp đồng độc quyền và kếch xù chưa từng có trong lịch sử với những công ty mĩ phẩm khổng lồ, họ ngay lập tức được nhận ra trên khắp thế giới, tên họ được biết đến trong công chúng.[73]

Đầu thập niên 1980, Inès de La Fressange là người mẫu đầu tiên ký một hợp đồng người mẫu độc quyền với nhà mốt đắt giá Chanel.[74] Trong suốt thập niên 80, các nhà thiết kế bắt đầu quảng bá sản phẩm trên tivi và biển quảng cáo ngoài trời. Những nữ hoàng Catwalk như Gia Carangi,[51] Tiegs,[51] Christie Brinkley,[46][75] Kim Alexis,[51] Paulina Porizkova, Yasmin Le Bon, Kathy Ireland,[76] Brooke Shields, Carol Alt, và Elle Macpherson bắt đầu quảng bá sản phẩm với tên họ cũng như khuôn mặt của họ qua kênh marketing của hãng như Diet PepsiFord trucks. Vào năm 1980, Shields 14 tuổi đã trở thành người mẫu nhỏ tuổi nhất được xuất hiện trên bìa Vogue. Sau đó cùng năm, Shields xuất hiện trên tivi và các ấn phẩm quảng cáo gây tranh cãi quảng bá coho quần jeans của hãng Calvin Klein. Trong quảng cáo được phát toàn cầu này có đoạn Shield nói một câu nói viral toàn cầu, "You want to know what comes between me and my Calvins? Nothing."[77][78][79] Những quảng cáo có Brooke Shields tham gia đã giúp cho sự nghiệp của nhà mốt Klein vươn lên vị thế ngôi sao.[80]

Giai đoạn này người mẫu theo đuổi phong cách sang chảnh theo kiểu glamour, họ bắt đầu thay thế các ngôi sao điện ảnh như một biểu tượng của sự xa hoa và giàu có. Vì thế mà thời này, siêu mẫu được nhìn nhận không phải như những cá thể riêng biệt mà là hình ảnh bề ngoài của cả giới này.[81]

Siêu mẫu thập niên 1990s

[sửa | sửa mã nguồn]
Claudia Schiffer nổi lên vào thập niên 90 như gương mặt đại diện Chanel

Trước thập niên 90, đế chế siêu mẫu trở nên cực thịnh trên truyền thông.[43] Danh xưng này cũng tương tự như siêu sao trong âm nhạc hay phim ảnh, để định nghĩa một ngôi sao trong giới thời trang, một hào quang của siêu mẫu xuất phát từ chính cá tính của cô gái sở hữu hào quang đó.[82] Các siêu mẫu cũng tham gia talk shows, xuất hiện trên các tờ báo lá cải, tiệc tùng ở những địa điểm chơi đêm thịnh hành nhất,[81] đóng phim, đại diện một dòng sản phẩm, hẹn hò hoặc cưới những ngôi sao phim ảnh và kiếm hàng triệu đô la.[46] Danh tiếng tạo sức mạnh cho họ chăm lo cho sự nghiệp của mình, quảng bá chính bản thân mình với những khoản tiền ngày một lớn.

Kỷ nguyên mới của siêu mẫu bắt đầu vào năm 1990, với tạp chí định nghĩa thời trang nước Anh - Vogue. Bìa Vogue[83][84] cùng với Cindy Crawford, Christy Turlington, Linda Evangelista, Naomi Campbell, và Tatjana Patitz,[85] Nhóm này được chụp bởi nhiếp ảnh gia Peter Lindbergh đã tạo nên một sự ấn tượng vô cùng mạnh mẽ lên nền thời trang thế giới và vì thế mà họ được gắn với danh xưng "siêu mẫu".[86] Mỗi người mẫu trong nhóm đã tạo tiếng vang dần dần từ giữa thập niên 80 và rồi đứng vào hàng ngũ những ngôi sao của ngành thời trang thế giới. Được lựa chọn bởi Lindbergh[87] cho bìa tháng một của "Vogue", bìa Vogue tháng này đã truyền cảm hứng cho ca sĩ George Michael phải mời bằng được 5 siêu mẫu này vào music video của ca khúc "Freedom! '90" mà anh hát dưới bàn tay đạo diễn của David Fincher.[88] Một bức ảnh khác đã ghi lại được thế hệ mới của những siêu mẫu thời trang là tấm ảnh đen trắng mà các cô Crawford, Patitz, Campbell và Stephanie Seymour khỏa thân được chụp bởi nhiếp ảnh gia Herb Ritts. Tấm ảnh ban đầu được đăng trên ấn phẩm tháng 5 năm 1989 của tờ Rolling Stone, nhưng phải đến một phiên bản thay thế của bức hình này trong đó có thêm cô Turlington được phát hành vào thập niên 90. Tấm hình chỉ được công bố rộng rãi cho công chúng ngay sau một hợp đồng độc quyền cô ký với Calvin Klein hết hiệu lực - tấm ảnh biểu tượng này bao gồm cả năm cô "Stephanie, Cindy, Christy, Tatjana, Naomi, ký tặng Hollywood 1989."[89] Những tấm ảnh nhóm của Lindbergh và Ritt giúp mỗi người trong số họ đạt được danh tiếng toàn cầu khi cùng lên bìa của ấn bản quốc tế tạp chí Vogue, cùng đi catwalk cho những nhà thiết kế hàng đầu thế giới, và nổi tiếng với chỉ tên của mình không cần cả họ.

Ngày nay, Campbell, Crawford, Evangelista, Patitz và Turlington thường được gọi là nhóm "Original Supermodels" (nguyên siêu mẫu).[90][91][92]

Năm 1991, Turlington ký một hợp đồng với Maybelline mang về cho cô 800,000 đô mỗi năm chỉ với 12 ngày làm việc. Bốn năm sau đó, Claudia Schiffer đã kiếm được 12 triệu đô cho nhiều dự án người mẫu khác nhau trong năm.[81] Các nhà chức trách, từ Karl Lagerfeld tới tạp chí Time đã từng tuyên bố rằng các siêu mẫu sang chảnh hơn rất nhiều những ngôi sao điện ảnh.

Campbell, Evangelista và Turlington được thế giới yêu thích hơn cả và ba người được phong tặng danh hiệu The Trinity - "Hội tam mẫu", một cụm từ được sử dụng lần đầu tiên bởi nhiếp ảnh gia Steven Meisel và được giới thiệu bởi nhà báo Michael Gross.[93] Evangelista được biết đến với biệt danh "Chameleon", cho khả năng cô có thể biến đổi vẻ ngoài và tự tái tạo bản thân.[94] Turlington thì được mệnh danh "nữ hoàng của sự đảm bảo", cô nói "khách hàng họ biết rằng nếu họ làm việc với tôi, không có gì lầm lỗi xảy ra hết".[95] Campbell là người mẫu da màu đầu tiên xuất hiện trên bìa của các tờ Time, French Vogue, British Vogue, và ấn phẩm tháng chín của American Vogue, ấn phẩm truyền thống được cho là lớn và quan trọng nhất hàng năm của tạp chí này.[96]

Naomi Campbell, một trong "Ngũ đại Siêu Mẫu" của thập niên 90

Campbell, Crawford, Evangelista, Patitz và Turlington là nhóm siêu mẫu được phong tặng "Ngũ đại siêu mẫu" của thập niên 90.[97][98][99][100] Cụm từ "Ngũ đại siêu mẫu" sau này được dùng để chỉ Campbell, Crawford, Evangelista, Turlington và Claudia Schiffer,[49][101] còn sau đó có thêm sự xuất hiện của Kate Moss, sáu người họ được gọi là "The big Six" ("Lục đại siêu mẫu").[102][103] Linda Evangelista, Tatjana Patitz, Naomi Campbell, Christy Turlington và Kate Moss đều có cho mình những chiến dịch quảng cáo có kinh phí cao nhất mọi thời đại, trong đó nhóm Nguyên siêu mẫu (4.5 triệu đô năm 1992, chỉnh chỉ số lạm phát năm 2021, tương đương 8.5 triệu đô)[104]) đã được tham gia chiến dịch quảng bá dòng xe ô tô Vauxhall Corsa trong một tvc biểu tượng.[105][106]

Trong cuốn sách năm 2006 tựa đề In Vogue: The Illustrated History of the World's Most Famous Fashion Magazine (dịch: "Vogue : Lịch sử qua hình ảnh của tờ tạp chí thời trang nổi tiếng nhất thế giới")[107] (Rizzoli), nhóm biên tập đã nhắc đến hội "Nguyên siêu mẫu" và Schiffer khi trích dẫn lời của tổng biên tập VogueAnna Wintour, cho rằng "Những cô gái ấy thật sự tuyệt vời đối với thời trang và chính họ là người phản chiếu giai đoạn lịch sử thời trang đó...Họ lúc đó giống như ngôi sao điện ảnh vậy." Nhóm biên tập cũng nêu ra nhiều người mẫu nổi tiếng từ các thập niên trước nhưng họ cho rằng "Không có ai có thể có được danh tiếng toàn cầu như Linda Evangelista, Christy Turlington, Cindy Crawford, Naomi Campbell, Tatjana Patitz, Stephanie Seymour, Claudia Schiffer, Yasmeen Ghauri, và Karen Mulder, vào cuối thập niên 80 đầu thập niên 90. Những cô gái này đã bùng nổ vào kỷ nguyên đó ra khỏi những tờ tạp chí. Nhiều trong số đó trở thành gương mặt thương hiệu cho các hãng nước hoa và mỹ phẩm, có những video và chương trình truyền hình riêng về thể dục, có dòng sản phẩm riêng của họ về đồ lót...Cuộc sống, hoạt động, sức ảnh hưởng và hình ảnh của họ là chủ đề của tất cả các ther loại nghiên cứu lịch sử và xã hội học. Tyra Banks bắt đầu sự nghiệp là một người mẫu năm 1991, book được 25 show phá vỡ kỷ lục thế giới vào cùng năm.[108] Cô cũng đã có vị thế của một siêu mẫu và cạnh tranh với cô bạn Naomi Campell trở thành hai đối trọng lớn nhất của ngành thời trang thế giới đều có xuất phát da màu.

Vào giữa thập niên 90, kỷ nguyên khởi nguồn của siêu mẫu kết thúc và nhường chỗ cho một kỷ nguyên mới mà công chúng lúc đó gọi là kỷ nguyên của những người mẫu "gầy dơ xương". Trước khi bước qua thập niên 2000, diễn viên, ca sĩ và những nghệ sĩ giải trí nổi tiếng khác bắt đầu dần dần thay thế người mẫu trên các chiến dịch quảng cáo cũng như tạp chí thời trang.[109] Sự lên xuống thoái trào của ánh đèn thời trang đã để lại sau đó biết bao nhiêu người mẫu sống trong vô vọng và vô danh. Một thuyết âm mưu phổ biến lý giải về sự biến mất của những siêu mẫu trên bản đồ thờicttang sau này là việc các nhà thiết kế và biên tập thời trang bắt đầu nhận thức về thái độ làm việc ngôi sao kiểu "tôi không dậy đi làm nếu thù lao ít hơn 10 nghìn đô la mỗi ngày" và họ tin chắc rằng không có một nhóm người mẫu nào có thể có quyền năng lớn hơn "lục đại siêu mẫu" của thập niên 90.[110]

Charles Gandee, một biên tập viên của Vogue, cho biết giá cao và thái độ làm việc kém là hai yếu tố khiến cho sự suy giảm những siêu mẫu trên thế giới ngày càng mạnh. Quần áo hiện giờ càng ít lấp lánh bao nhiêu, nhà thiết kế sẽ tự biến mình thành người mẫu bình dân, vì vậy mà họ không thể hiện sự lạm quyền với quần áo.[110] Trong khi nhiều siêu mẫu của kỷ nguyên trước là người Mỹ, nguồn gốc của họ khiến cho con đường đến với danh vọng và hào quang dễ dàng hơn,[46] còn lại phần lớn người mẫu đều là người không nói tiếng anh và có văn hóa khác,[111] điều này sẽ làm cho thị trường người mẫu đại diện thương hiệu và trang bìa trở nên khan hiếm.[112] Mặc dù vậy, nhưng hai chữ "siêu mẫu" vẫn tiếp tục được gắn với những cái tên sáng chói như Kristen McMenamy, Laetitia Casta,[113][114] Eva Herzigová,[115] Carla Bruni,[116] Tatiana Sorokko,[117][118] Yasmin Le Bon,[119] Amber Valletta,[120] Shalom Harlow,[121] Nadja Auermann,[122] Helena Christensen,[123] Patricia Velásquez,[124] Adriana Karembeu,[125][126] Valeria Mazza[127] và sau này là Milla Jovovich.

Xếp hạng siêu mẫu thập niên 1990s

[sửa | sửa mã nguồn]
Siêu mẫu Naomi Campbell tại Liên hoan phim Cannes 2018.
Siêu mẫu Cindy Crawford tại buổi ra mắt phim Fantastic Mr. Fox vào năm 2009.
Siêu mẫu Christy TurlingtonEd Burns vào năm 2008.

Bên cạnh những siêu mẫu được công nhận khác, một số người mẫu nổi tiếng như Naomi Campbell, Cindy Crawford, Christy Turlington, Linda Evangelista, Tatjanja Patitz thường được gọi là Big Five Supermodels of the 1990s (Ngũ đại Siêu mẫu thập niên 90)[97][139][140][141] hoặc đôi khi là Original Supermodels (Nguyên siêu mẫu).[142][143][144]

Siêu mẫu thập niên 2000s đến nay

[sửa | sửa mã nguồn]
Adriana Lima, một trong những "Siêu mẫu mới" và thiên thần Victoria's Secret Angel dài hơi nhất

Nổi lên vào cuối thập niên 90, Gisele Bündchen trở thành nhân tố đầu tiên trong làn gió người mẫu Brazil đang nhiều lên trong nền công nghiệp thời trang cũng như đối với công chúng. Với vô số bìa Vogue dắt lưng bao gồm một ấn bản xưng cho sự trở lại của cô là của một "Người mẫu gợi cảm", Bündchen là người khép lại kỷ nguyên người mẫu "gầy dơ xương".[145] Nối gót cô khi ký hợp đồng với Victoria's Secret, các cô mẫu đàn em cũng đến từ Brazil như Adriana LimaAlessandra Ambrosio nổi lên; song, họ không thể bước qua thế giới của tv shows, phim ảnh và talk shows dễ dàng như những đàn chị vì lý do văn hóa và ngôn ngữ. Thập niên 2000 còn chứng kiến sự lên ngôi của các ngôi sao khác Carmen Kass, Karolina Kurkova, Hana Soukupova, Isabeli FontanaNatasha Poly bên cạnh Bündchen với nhiều hợp đồng quảng cáo và đại diện.[46]

Trong một số mùa Victoria's Secret sau này, xuất hiện nhiều người mẫu Đông Âu, hầu như là ở độ tuổi teen, trông xanh xao và "đứng trước bờ vực của chứng biếng ăn. Các cô gái này còn quá trẻ để trở thành ngôi sao phim ảnh hay hẹn hò với ngôi sao; gầy dơ xương để có thể ký hợp đồng với Victoria's Secret; đồng thời thiếu kỹ năng tiếng anh cũng là một yếu tố hạn chế họ với một sự nghiệp rộng mở hơn".[46] Cơ hội dành cho ngôi sao vẫn len lỏi khắp thế giới người mẫu, và những siêu mẫu như Heidi KlumTyra Banks đã nắm bắt cơ hội này để cho ra đời những show truyền hình thực tế như Project RunwayGermany's Next Topmodel, và America's Next Top Model, đã không chỉ tìm kiếm người mẫu tương lai mà còn xác lập chính họ trở thành những thế lực truyền thông mới của giới người mẫu.[46]

Trái ngược với những xu hướng thời trang của người nổi tiếng trong thập kỷ trước, hãng đồ lót Victoria's Secret tiếp tục ươm mầm và đưa những tài năng mới lên hàng siêu mẫu thế giới, trao cho họ những hợp đồng nhiều năm với nhiều triệu đô .[46]

American Vogue liệt kê 10 cái tên bao gồm (Doutzen Kroes, Agyness Deyn, Hilary Rhoda, Raquel Zimmermann, Coco Rocha, Lily Donaldson, Chanel Iman, Sasha Pivovarova, Caroline TrentiniJessica Stam) khi nhóm này có một bài trên Vogue tháng 5 năm 2007,[146] trong khi đó những người như Christie Brinkley, Christy TurlingtonLinda Evangelista nổi trở lại cùng những hợp đồng với những người nổi tiếng và những người mẫu trẻ hơn.[46]

Bella Hadid (trái) and Gigi Hadid (phải), 2 siêu mẫu được trả lương cao nhất năm 2021.[147]

Sự lên ngôi của mạng xã hội và những cậu ấm cô chiêu đã chứng kiến một sự dịch chuyển trong thế giới người mẫu cuối thập niên 2010.[148][149][150][151][152] Điều này có nghĩa là rất nhiều siêu mẫu ngày nay nổi lên một cách gây tranh cãi và được ban cho những cơ hội chỉ vì họ xuất thân trong một gia đình có điều kiện và giàu có.[153] Có thể kể ra những cái tên như Kendall Jenner,[154] Cara Delevigne,[155] Bella Hadid,[152] Gigi Hadid[156]Kaia Gerber.[157] Mặc dù tranh cãi bao vây những người mẫu kiểu này và các tranh cãi đó chủ yếu về việc họ không có tài năng gì mà chỉ nổi tiếng vì có cha mẹ hoặc người nhà nổi tiêngd trước đó,[158][159] song họ cũng đã chứng minh rằng joj là một vài trong số những người mẫu thành công nhất ngày nay. Năm 2021, Kendall Jenner được cho họ là siêu mẫu được trả lương cao nhất, cô kiếm 40 triệu đô la năm đó. Hai chị em nhà Hadid theo sát nút với hai cô gái Bella và Gigi kiếm được mỗi người lần lượt là 19 triệu đô và 20 triệu đô.[147]

Siêu mẫu ngày nay

[sửa | sửa mã nguồn]

Trên một trang web thống kê về thứ hạng và update về profile người mẫu Hoa Kỳ là models.com đã mô tả cái mà họ gọi là thế hệ tiếp theo của những siêu mẫu. Danh sách đó bao gồm Cara Delevingne, Karlie Kloss, Kendall Jenner,[160] Gigi Hadid,[161] Natalia Vodianova, Doutzen Kroes, Joan Smalls, Fei Fei Sun, Adriana Lima, Bella Hadid, Lara Stone, Miranda Kerr, Liu Wen, Jourdan Dunn, Liya Kebede, Anja Rubik, Laetitia Casta, Natasha Poly, Ashley Graham, và Kaia Gerber.[162]

Siêu mẫu quá khổ

[sửa | sửa mã nguồn]
Ashley Graham, một người mẫu quá khổ

Từ năm 2000, nổi lên một lớp người mẫu hàng đầu được gọi là "plus-size" (người mẫu quá khổ), bao gồm Robyn Lawley, Crystal Renn, Ashley Graham, Candice Huffine, Tara Lynn, Whitney Thompson, Katya Zharkova, Denise Bidot, Sophie Dahl, Jennie RunkNatalie Laughlin.[163] Những người mẫu này cũng catwalk, lên tạp chí, biển quảng cáo cho những nhãn hàng nổi tiếng toàn cầu như Vogue, Glamour, Levi's, Forever 21, Cover Girl, Saks Fifth Avenue, GQ Magazine, và Chanel.[163] Graham đã đạt được mức độ nổi tiếng toàn cầu rộng khắp sau khi cô lên bìa của một trong ba ấn phẩm năm 2016 của tờ tạp chí Sports Illustrated Swimsuit Issue.[164]

Siêu mẫu size giữa hay trung bình

[sửa | sửa mã nguồn]
Camille Kostek, một người mẫu "size giữa" hay "trung bình"

Camille Kostek, một người mẫu "size giữa" hay "trung bình", đã lên bìa tờ Sports Illustrated Swimsuit Issue năm 2019 mặc dù cô không đang ở điểm cực của bảng cân nặng như runway size (0–2) hay plus-size (10 up). Nhớ lại những khó khắn cô kể "Người ta bảo tôi là rất là tệ nếu tôi không phải size 10. Size plus là một thị trường lớn hiện tại và sẽ là rất tệ nếu mà tôi không lớn hơn. size của tôi là 4/6 gọi là size giữa, nghĩa là tôi không phải người mẫu gầy cũng không phải người mẫu quá khổ, nói chung tôi ở giữa.[165][166] Dù vậy nhưng cô cũng lên sàn cat walk cho New York Fashion WeekMiami Beach Swim Week.[167][168]

Tiếp nhận từ công chúng

[sửa | sửa mã nguồn]
Liu Wen, siêu mẫu đến từ Đông Á catwalk cho nhà mốt Diane von Fürstenberg Xuân Hè 2014
Halima Aden vừa catwalk vừa posing đội mũ hijab

Việc tiếp nhận siêu mẫu như một nền công nghiệp đã được báo chí đề cập không ít thì nhiều, đa phần là sự lo lắng của công chúng cho rằng những người phụ nữ muốn trở thành siêu mẫu sẽ nhịn ăn một cách không khoa học đến những vấn đề liên quan đến những nhóm fan phân biệt chủng tộc đối với những nhóm người mẫu có xuất thân khác biệt trong thập niên đầu của thế kỷ 21 hoặc một siêu mẫu nói chung phải tuân thủ theo một tiêu chuẩn quốc gia về vẻ đẹp của nơi họ đến từ. Ví dụ, tiêu chuẩn Bắc Âu ở Mỹ hay tiêu chuẩn Ấn ở Ấn Độ. Theo nhà nghiên cứu thời trang Guy Trebay của tờ New York Times, năm 2007, dựa vào ý kiến của một số nhà mốt trong thị trường thời trang, vẻ ngoài của người mẫu cần hiện đại kiểu "android" 4.0, một kiểu phổ biến, một ánh nhìn trống rỗng cùng một cơ thể gầy gò nhằm phục vụ cho ngành công nghiệp. Tuy nhiên điều đó không phải lúc nào cũng đúng. Vào thập niên 1970, tại Bắc Mỹ, người mẫu đen, nặng hơn và có xuất thân thiểu số đã chiếm lĩnh sàn catwalk nhưng những cuộc thay đổi xã hội vào thập niên 80 tới đầu thập niên 2000 đã thuyết phục những nhà đầu tư tay chơi trong ngành thời trang tìm kiếm những đề xuất từ "sự khác biệt".[169] Song, từ nửa sau của thập kỷ đầu thế kỷ 21, sự đa dạng chủng tộc tăng lên trong giới siêu mẫu ở ngành thời trang Mỹ được ghi nhận nhờ sự phát triển lớn mạnh của các thị trường Đông Á, bao gồm những người mẫu Nhật Bản như Tao Okamoto và những người mẫu Trung Quốc như Fei Fei SunLiu Wen.[170] Nhờ những hoạt động và mạng xã hội đang ngày một đóng vai trò quan trọng đối với thời trang ví dụ như third wave body positivity (làn sóng thứ ba tích cực với cơ thể), cho nên phạm vi tìm kiếm một người mẫu cho ngành công nghiệp thời trang hiện nay cũng đang ngày một mở rộng từ kích cỡ, giới tính đến việc thông qua những phương tiện truyền thông nghe nhìn mạng xã hội.

Người mẫusiêu mẫu

[sửa | sửa mã nguồn]

Người mẫu (modelling) là một công việc mà người mẫu được thuê để quảng bá bất kỳ sản phẩm hoặc thương hiệu nào thông qua nhiều hình thức khác nhau như trình diễn trên sàn diễn hoặc quảng cáo thương mại. Ngoài ra, một số người mẫu nổi tiếng được chọn làm đại diện thương hiệu. Bằng cách sử dụng các người mẫu, các nhà quảng cáo và nhà thiết kế thực hiện một nỗ lực để tạo sự thu hút hoặc lôi cuốn cho sản phẩm của họ. Khái niệm người mẫu do đó bao gồm cả những siêu mẫu.
Tuy nhiên, siêu mẫu là những người mẫu tiêu biểu đầu tư và làm việc chăm chỉ, đạt đỉnh cao trong lĩnh vực thời trang. Họ là những người nổi tiếng thu hút trong thế giới thời trang. Do đó, những siêu mẫu này được các thương hiệu và nhà thiết kế đánh giá rất cao. Họ nổi tiếng với các hợp đồng, chiến dịch thời trang triệu đô la. Tên tuổi của Siêu mẫu được công nhận trên toàn thế giới, gắn liền với sự nghiệp thành công rực rỡ, có chỗ đứng vững chắc trong thị trường của họ.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ The 20 Richest Women In Entertainment/Forbes (magazine).
  2. ^ Top ten highest paid models
  3. ^ “Super-model enjoys private life”. Kitchener-Waterloo Record. ngày 2 tháng 4 năm 1991. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2016.
  4. ^ “Two more companies drop super-model Kate Moss”. CBC News. ngày 21 tháng 9 năm 2005. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2016.
  5. ^ “Super-model turned into super-spy”. Ettoday.com. ngày 4 tháng 10 năm 2004.
  6. ^ Schoolman, Judith (ngày 7 tháng 9 năm 2001). “Estee Lauder Signs Super-Model to Present Fresh Look”. Knight Ridder/Tribune Business News.
  7. ^ “Which Super-Model Was Mobbed By Male Fans At Macy's? Guess”. San Jose Mercury News. ngày 13 tháng 10 năm 1990.
  8. ^ “World Super Model”. World Super Model. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2011.
  9. ^ Onyema, Ada (ngày 19 tháng 12 năm 2009). “Being Nigeria's Next Super Model has brought me nothing but tears and sorrow –Cynthia Omorodion”. The Punch.[liên kết hỏng]
  10. ^ “Hello boys: It's Cindy Crawford, still a super model at 40”. Daily Mail. ngày 8 tháng 6 năm 2007.
  11. ^ “Courtney Love confesses to an affair with Kate Moss”. FOX411 Blog. Fox News. ngày 20 tháng 5 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2016.
  12. ^ How, Harry (July–December 1891). Geo. Newnes (biên tập). “Illustrated Interviews. No. II. – Henry Stacy Marks, R.A”. The Strand Magazine. 2: 118. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2011.
  13. ^ Chicago Tribune archives Lưu trữ 23 tháng 2 năm 2010 tại Wayback Machine Cass, Judith. Chicago Daily Tribune. "'Super' Models Are Signed for Fashion Show" 6 October 1942. pg 21.
  14. ^ Dessner, Clyde M. (1943). So You Want to Be a Model! The Art of Feminine Living. Chicago: Morgan-Dillon & Co. OCLC 3193185.
  15. ^ Popik, Barry (13 tháng 8 năm 1997). “Supermodels”. Americandialect.org. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2011. She will be a super-model, but the girl in her will be like the girl in you—quite ordinary, but ambitious and eager for personal development.
  16. ^ Gross, Michael (2011). Model: The Ugly Business of Beautiful Women. New York: Harper Collins. tr. 12. ISBN 978-0062076120.
  17. ^ “Cinema: Cover Girl”. Time. 8 tháng 1 năm 1945. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2011.
  18. ^ Hearst's International Combined with Cosmopolitan. 126. 1949. tr. 33. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2011. She's been super model, super movie saleswoman, and top brass at Selznick and Paramount
  19. ^ “Town Talk”. Chinatown News (Vancouver). 7 (4). Chinese Publicity Bureau. 18 tháng 10 năm 1959. tr. 11. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2012. For this glittering program they called on super model Susan Chew to do the organizing.
  20. ^ American Jurisprudence Trials. 8. West Group. 1965. tr. 154.
  21. ^ a b “Home : Oxford English Dictionary”. Oed.com. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2016.
  22. ^ a b BarryPopik.com Supermodel Lưu trữ 30 tháng 1 năm 2016 tại Wayback Machine 25 July 2004
  23. ^ Vogue cover scan. 1 September 1975 edition Lưu trữ 28 tháng 2 năm 2012 tại Wayback Machine. Một dữ liệu từ Ebay.co.uk. Subheadline nhắc đến, "Siêu mẫu mới của New York, cô Margaux Hemingway".
  24. ^ "Words of the Week: Beverly Johnson" 22 December 1977. Jet. Vol. 53, No. 14, page 40.
  25. ^ a b Dickinson, Janice. Instinct Magazine: Janice Dickinson Archived from original link. 1 June 2006. InstinctMagazine.com. Retrieved 9 June 2009.
  26. ^ Ranck, Rosemary (9 tháng 2 năm 1997). “The First Supermodel”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2007.
  27. ^ “Christian Dior: Lisa Fonssagrives lives”. China Daily. 1 tháng 7 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2011.
  28. ^ Singh, Anita (13 tháng 11 năm 2008). “Photographs of Angelina Jolie, Kate Moss and Britney Spears for sale at Christie's”. The Daily Telegraph. London. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2010.
  29. ^ Cheesman, Chris (19 tháng 10 năm 2007). “Pictures: Original stills from JFK assassination revealed”. Amateur Photographer. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2007.
  30. ^ Johnson, Geoffrey (tháng 3 năm 2010). “On the life and work of photographer Beatrice Tonnesen”. Chicagomag.com. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 11 năm 2012.
  31. ^ Baker, Lindsay (4 tháng 1 năm 2015). “Evelyn Nesbit: The World's first supermodel”. BBC. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2019.
  32. ^ “Archetypal supermodel was more than a face”. The Australian. 16 tháng 7 năm 2008.
  33. ^ “World's first supermodel dies”. Metro.co.uk. 11 tháng 7 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2012.
  34. ^ Bumpus, Jessica (14 tháng 7 năm 2008). “Dorian Leigh Remembered”. Vogue. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2010.
  35. ^ Mansour, David (2005). From Abba to Zoom: A Pop Culture Encyclopedia of the Late 20th Century. tr. 430. ISBN 0-7407-5118-2.
  36. ^ Busch, Charles (24 tháng 1 năm 1995). “He's Every Woman”. The Advocate: 60.
  37. ^ Magee, Antonia (28 tháng 10 năm 2009). “Model Jean Shrimpton recollects the stir she caused on Victoria Derby Day in 1965”. Herald Sun. Australia. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 6 năm 2011.
  38. ^ Susan Cohen, Christine Cosgrove (2009). Normal at Any Cost: Tall Girls, Short Boys, and the Medical Industry's Quest to Manipulate Height. Penguin. tr. 9. ISBN 978-1-58542-683-6.
  39. ^ “Jean Shrimpton in Melbourne”. Milesago.com. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2011.
  40. ^ Vallely, Paul (10 tháng 9 năm 2005). “Gia: The tragic tale of the world's first supermodel”. The Independent. London. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 28 tháng 5 năm 2007.
  41. ^ Carolin, Louise. “Gia – the tragedy of a lesbian supermodel”. Diva. Bản gốc lưu trữ 25 Tháng Ba năm 2007. Truy cập 17 Tháng Một năm 2008.
  42. ^ Schwarz, Mark (2008). “Dear Shareholder” (PDF). Wilhelmina International, Inc. Annual Report 2008. Wilhelmina.com: 3. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2011.
  43. ^ a b c We Three Queens by Alex Williams, New York online Lưu trữ 2006-02-28 tại Wayback Machine retrieved ngày 7 tháng 7 năm 2006
  44. ^ Supermodel by Heidi Klum randomhouse.com. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2007.
  45. ^ Model Citizens Lưu trữ 2007-10-14 tại Wayback Machine ew.com. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2007.
  46. ^ a b c d e f g h i “The World's Top-Earning Models-Forbes Magazine”. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2012.
  47. ^ New Model Army by Kate Patrick, The Scotsman ngày 21 tháng 5 năm 2005 online retrieved ngày 7 tháng 7 năm 2006
  48. ^ Is the Supermodel Dead? And Should She Return? Lưu trữ 2007-12-10 tại Wayback Machine Retrieved ngày 14 tháng 9 năm 2007.
  49. ^ a b The supermodel is dead, says Claudia Schiffer Lưu trữ 2011-06-06 tại Wayback Machine source:thisislondon.co.uk. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2007.
  50. ^ Lisa Fonssagrives-Penn, Nicholas Callaway, Alexander Liberman, Alexandra Arrowsmith (1994). Lisa Fonssagrives-Penn: sculpture, prints and drawings.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
  51. ^ a b c d Rosemary Ranck (ngày 9 tháng 2 năm 1997). “The First Supermodel”. The New York Times. Truy cập ngày 24 tháng 9 năm 2006.
  52. ^ Wyllie, Alice (ngày 10 tháng 1 năm 2008). “An enduring model”. The Scotsman. Edinburgh.
  53. ^ Brubach, Holly (ngày 8 tháng 2 năm 1998). “Style; A State of Grace”. The New York Times. ...Lisa Fonssagrives, who in retrospect surely qualifies as the first supermodel.
  54. ^ “Christian Dior: Lisa Fonssagrives lives”. China Daily. ngày 1 tháng 7 năm 2008. Generally credited with being the first ever supermodel, Fonssagrives'...
  55. ^ Alexander, Hilary (ngày 30 tháng 6 năm 2008). “The thigh's the limit at Christian Dior”. Telegraph. London. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2011. the iconic first super-model, Lisa Fonssagrives
  56. ^ Johnson, Geoffrey (tháng 3 năm 2010). “On the life and work of photographer Beatrice Tonnesen”. Chicago Magazine. ...1949, Lisa Fonssagrives, recognized today as the original supermodel
  57. ^ Cheesman, Chris (ngày 19 tháng 10 năm 2007). “Pictures: Original stills from JFK assassination revealed”. Amateur Photographer. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2011. ...Lisa Fonssagrives-Penn, described as the 'world's first supermodel'
  58. ^ Singh, Anita (ngày 13 tháng 11 năm 2008). “Photographs of Angelina Jolie, Kate Moss and Britney Spears for sale at Christie's”. Telegraph. London. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2011. She has been described as the original supermodel, gracing the pages of Vogue in the 1940s and 1950s
  59. ^ Cokal, Susann. St. James Encyclopedia of Popular Culture. 1999. Michigan: Gale Group.
  60. ^ a b Curtis, Bryan (16 tháng 2 năm 2005). “The Sports Illustrated Swimsuit Issue: An intellectual history”. Slate. Washington Post. Newsweek Interactive Co. LLC. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2007.
  61. ^ Barron, James (24 tháng 9 năm 1995). “SIGNOFF; Maybe Late-Night Success Is About The Smile”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2009.
  62. ^ Lyons, Jenna (28 tháng 8 năm 2013). “The Iconoclast: Lauren Hutton”. Interview.
  63. ^ “Vogue Fun Facts by the Numbers”. Vogue (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2018.
  64. ^ Iman: Supermodel and Beauty Innovator Lưu trữ 16 tháng 2 năm 2010 tại Wayback Machine, Teen Vogue.
  65. ^ Fonseca, Nicholas (29 tháng 6 năm 2001). “Entertainment Weekly: "Papa's Little Girl". Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2011.
  66. ^ Carreon, Blue (28 tháng 2 năm 2011). “Is This the Time of the Asian Model?”. HuffPost. Truy cập ngày 16 tháng 10 năm 2019.
  67. ^ “These Original Supermodels Continue to Wow the Fashion World”. www.icepop.com. 22 tháng 11 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2018.
  68. ^ Wilson, Julee (1 tháng 2 năm 2012). “Donyale Luna, The First Black Model To Cover Vogue UK (PHOTO)”. HuffPost.
  69. ^ Wilson, Eric (3 tháng 8 năm 2009). “Naomi Sims, 61, Pioneering Cover Girl, Is Dead”. The New York Times. New York. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2011.
  70. ^ Joy Sewing Beverly Johnson's got the right attitude Lưu trữ 26 tháng 8 năm 2009 tại Wayback Machine Houston Chronicle. Retrieved 23 August 2009
  71. ^ Black Girls Rule Online Lưu trữ 7 tháng 4 năm 2016 tại Wayback Machine retrieved 27 March 2016.
  72. ^ Vogue: Lưu trữ 2016-07-29 tại Wayback Machine Model Anna Cleveland on Beauty Advice from Her Supermodel Mother and the One Product That's in Her Makeup Bag This Week. 8, 25 March. Retrieved 27 March 2016.
  73. ^ Best–Selling Beauties, Life October 1981, page 120
  74. ^ Paris Haute Couture Fashion Week: Gaultier's 51-Year-Old Runway Star: Inès de la Fressange
  75. ^ “Christie Brinkley's biography in the New York Times”. Movies & TV Dept. The New York Times. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2011.
  76. ^ Pomerantz, Dorothy (8 tháng 2 năm 2012). “How Sports Illustrated Swimsuit Model Kathy Ireland Became a $350 Million Mogul”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2012.
  77. ^ Stated on Inside the Actors Studio, 2008
  78. ^ Sischy, Ingrid. "Calvin to the Core"
  79. ^ Style.com Brooke Shields
  80. ^ Hall, Ann C. (1998). Delights, desires and dilemmas: essays on women and the media. Greenwood Publishing Group. p. xii. ISBN 0-275-96156-7
  81. ^ a b c 1980s: Fashion: Supermodels Lưu trữ 4 tháng 7 năm 2007 tại Wayback Machine bookrags.com. Retrieved 23 July 2007.
  82. ^ MIRANDA BRYANT, ALEX BILMES (14 tháng 1 năm 2015). “Cindy Crawford: It's not so super for models now ... magazines want stars on their covers”. London Evening Standard. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2015.
  83. ^ Cochrane, Lauren (11 tháng 8 năm 2023). “Supermodels recreate iconic Vogue cover 30 years on”. The Guardian. Truy cập ngày 13 tháng 8 năm 2023.
  84. ^ Milligan, Lauren (16 tháng 11 năm 2009). “Cindy Sees: Cindy Crawford talks Recession and Size Zero”. www.vogue.co.uk. Vogue UK. Lưu trữ bản gốc 22 Tháng mười hai năm 2015. Truy cập 21 Tháng mười hai năm 2015.
  85. ^ "January 1990" Lưu trữ 16 tháng 10 năm 2015 tại Wayback Machine. Vogue Magazine Archive. Retrieved 10 August 2015.
  86. ^ “The Eye: Peter Lindbergh”. Interview Magazine (interviewmagazine.com). Brant Publications. 27 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2013.
  87. ^ Brown, Laura (tháng 3 năm 2009). “Classic Lindbergh – for this cover, the models have been photographed together yet again in another equally famous black-and-white image, this time by Herb Ritts grouping together Patitz, Crawford, Turlington, Campbell, Shalom Harlow and Stephanie Seymour. Both images are responsible for ushering in the era of the supermodel”. Harper's Bazaar.
  88. ^ “#Flashback: George Michael's 'Freedom! '90' turns 25”. Elle Australia (elle.com.au/). Bauer Media Pty Limited. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2015.
  89. ^ SUN, FEIFEI. “Herb Ritts Retrospective: Naomi Campbell Remembers the Iconic Photographer”. Time. TIME USA, LLC. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2020.
  90. ^ “Top 5 Fashion Moments”. www.frockadvisor.com. frockadvisor Limited. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2015.
  91. ^ Olivier, Dana (10 tháng 5 năm 2016). “Executive Fashion And Beauty Editor”. Huffington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2016.
  92. ^ Okwodu, Janelle. “Vogue.com Fashion News Writer”. www.vogue.com. Vogue. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2015.
  93. ^ “A league of their own”. Vanity Fair. tháng 9 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2014.
  94. ^ “Vogue Italia Encyclo: Linda Evangelista”. Vogue Italia. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2014.
  95. ^ “More to Christy than meets the eye”. Vogue. 20 tháng 9 năm 1995. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2014.
  96. ^ “Naomi Campbell”. Models.com. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2014.
  97. ^ a b Hoskyns, Barney (tháng 9 năm 1992). “Out of Bed with Naomi: The Making of a Superstar”. British Vogue. 76 (9): 229. The caption 'The big five: Naomi, Linda, Tatjana, Christy and Cindy, January 1990' accompanies the iconic cover photo of the five women
  98. ^ Morris, Sandra (1996). Catwalk: Inside the World of Supermodels . New York: Universe Publishing, a division of Rizzoli International Publications. tr. 6. ISBN 0-7893-0056-7. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2016.
  99. ^ “Happy Birthday, Linda Evangelista! The Original Supermodel Turns 50 And Is Happy About Aging”. The Huffington Post (huffingtonpost.com). The Huffington Post Media Group. 8 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  100. ^ Mokoena, Tshepo. “THE DEATH OF THE SUPERMODEL”. www.DontPanicOnline.com. Don't Panic. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2011.
  101. ^ “Naomi Campbell covers shape magazine”. enstarz. 20 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  102. ^ “Christy Turlington: "Above all, I hated the catwalk". the telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  103. ^ “Supermodel's life in the spotlight”. BBC News. 27 tháng 3 năm 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 5 năm 2004. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2007.
  104. ^ 90s Fashion. “Supermodels Film Vauxhall Corsa Ad in the UK 1992”. Youtube. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  105. ^ Safronova, Valeriya (15 tháng 9 năm 2016). “Fashion's Favorite Pets”. The New York Times. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  106. ^ March, Bridget (25 tháng 7 năm 2013). “Kate Moss's makeover, 20 years ago today It's the anniversary of the Vauxhall Corsa ad that starred a 19-year-old Kate Moss, transforming the future-'super' from grunge to glamour”. COSMOPOLITAN. Hearst UK Fashion & Beauty Network. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2021.
  107. ^ Oliva, Alberto; Angeletti, Norberto (22 tháng 9 năm 2006). In Vogue: The Illustrated History of the World's Most Famous Fashion Magazine. ISBN 978-0-8478-2864-7.
  108. ^ “Tyra Banks”. Biography. 15 tháng 10 năm 2020.
  109. ^ Death of the Supermodels by C. L. Johnson, Urban Models 21 October 2002 online Lưu trữ 15 tháng 7 năm 2006 tại Wayback Machine Retrieved 13 July 2006
  110. ^ a b "The Fall of the Supermodel" Lưu trữ 5 tháng 5 năm 2009 tại Wayback Machine Time. Retrieved 23 July 2007.
  111. ^ “Who will be the next Super Model? (NY Times)”. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2009.
  112. ^ Industry Report: Elite Plus Lưu trữ 27 tháng 9 năm 2007 tại Wayback Machine models.com. Retrieved 25 July 2007.
  113. ^ “Laetitia Casta – SUPERMODEL”. Newfaces.com. 11 tháng 5 năm 1978. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2011.
  114. ^ Laetitia Casta, égérie de Ralph Lauren Lưu trữ 3 tháng 12 năm 2009 tại Wayback Machine, Next-Libération, 9 July 2008
  115. ^ “Supermodel Eva Herzigova writes for Vogue”. Vogue UK. 27 tháng 5 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2016.
  116. ^ Sarkozy and the Supermodel Time
  117. ^ “Supermodel Tatiana Sorokko's Couture Exhibit”. Harper's Bazaar. 20 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2016.
  118. ^ Haden-Guest, Anthony (18 tháng 10 năm 2014). “Tatiana Sorokko is the Queen of Vintage Couture”. The Daily Beast. New York. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2015.
  119. ^ The supermodels return for Harper's Bazaar Lưu trữ 6 tháng 4 năm 2013 tại Wayback Machinefashion.telegraph.co.uk. Retrieved 12 August 2012.
  120. ^ McCarthy, Philipp (21 tháng 2 năm 2005). “Amber's catwalk glow turns to screen stardom”. The Sun-Herald. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2015.
  121. ^ Phelan, Hayley (30 tháng 5 năm 2012). “Watch: Shalom Harlow on Her Return to the Runway and 'One-Upping' Fellow Supermodels in the '90s – Fashionista”. Fashionista. Truy cập ngày 25 tháng 10 năm 2015.
  122. ^ Menkes, Suzy (2 tháng 12 năm 2008). “In Milan: Avedon's work for Versace”. The New York Times. New York. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2011.
  123. ^ “Helena Christensen: on supermodels and posing nude at 40”. The Telegraph. 29 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2016.
  124. ^ [1] Lưu trữ 2015-02-06 tại Wayback Machine, United Nations Radio, 9 August 2009
  125. ^ Skoda prend ses aises avec Adriana Karembeu Lưu trữ 2011-07-21 tại Wayback Machine, Stratégies, 28 February 2003
  126. ^ 'Wonderbras are safe' says Adriana, BBC, 12 August 1998
  127. ^ Valeria Mazza, 'supermamá', 'superesposa' y 'supermodelo' en Roma Lưu trữ 6 tháng 5 năm 2013 tại Wayback Machine, ¡Hola!, 13 February 2011
  128. ^ [2]
  129. ^ “Christy Turlington - Fashion Model - Profile on New York Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  130. ^ “Cindy Crawford - Fashion Model - Profile on New York Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  131. ^ “Claudia Schiffer - Fashion Model - Profile on New York Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  132. ^ “Gisele Bündchen - Fashion Model - Profile on New York Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  133. ^ “Helena Christensen - Fashion Model - Profile on New York Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  134. ^ “Kate Moss - Fashion Model - Profile on New York Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  135. ^ “Linda Evangelista - Fashion Model - Profile on New York Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  136. ^ “Naomi Campbell - Fashion Model - Profile on New York Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  137. ^ “Shalom Harlow - Fashion Model - Profile on New York Magazine”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  138. ^ Stephanie Seymour - Fashion Model - Profile on New York Magazine
  139. ^ Morris, Sandra (1996). Catwalk: Inside the World of Supermodels . New York: Universe Publishing, a division of Rizzoli International Publications. tr. 6. ISBN 0-7893-0056-7. Truy cập ngày 5 tháng 8 năm 2016.
  140. ^ “Happy Birthday, Linda Evangelista! The Original Supermodel Turns 50 And Is Happy About Aging”. The Huffington Post (huffingtonpost.com). The Huffington Post Media Group. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2016.
  141. ^ Mokoena, Tshepo. “THE DEATH OF THE SUPERMODEL”. www.DontPanicOnline.com. Don't Panic. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2011.
  142. ^ “Top 5 Fashion Moments”. www.frockadvisor.com. frockadvisor Limited. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2015.
  143. ^ Olivier, Dana. “Executive Fashion And Beauty Editor”. www.huffingtonpost.com. Huffington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2016.
  144. ^ Okwodu, Janelle. “Vogue.com Fashion News Writer”. www.vogue.com. Vogue. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2015. Truy cập 10 Tháng mười hai năm 2015.
  145. ^ Gisele Bündchen. “Celebrity Central: Gisele Bundchen biography”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2011.
  146. ^ Vogue's ten covergirls bring personality and attitude to spring's eye-popping prints. Are we witnessing the return of the model? Lưu trữ 28 tháng 10 năm 2008 tại Wayback Machine Jonathan Van Meter reports
  147. ^ a b “Highest Paid Models in the World — Richest Models Kendall Jenner Gisele Bündchen Net Worth”. L'Officiel USA (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  148. ^ “Hot Take: Are There Any Celeb Kids Not Modelling Right Now?” (bằng tiếng Anh). 19 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  149. ^ “The internet is only just realising half of Hollywood are nepotism babies”. Glamour UK (bằng tiếng Anh). 27 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  150. ^ “Just like your mama: the world of nepo babies”. Varsity Online (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  151. ^ “Susan Swarbrick: The curious trend of Hollywood's 'nepo babies'. HeraldScotland (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  152. ^ a b “Maybe She's Born With It: Nepotism at New York Fashion Week | Arts | The Harvard Crimson”. www.thecrimson.com. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  153. ^ Malivindi, Diandra. “What Are 'Nepotism Babies'? Here's Why TikTok's Eyes Are On Celebrities From Famous Families”. ELLE (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  154. ^ “Carol Alt Calls Out Kendall Jenner and Nepotism in Modeling”. W Magazine (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  155. ^ Staff, Betches (11 tháng 9 năm 2020). “How Did Cara Delevingne Get So Famous? What You Didn't Know About Her Family”. Betches (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  156. ^ “Gigi Hadid accused of benefiting from nepotism after her dad calls her 'self-made'. www.geo.tv (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  157. ^ “Fashion's Nepotism Problem Has Never Been More Apparent”. Grazia. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  158. ^ 'Kylie and Kendall are the textbook definition of nepotism': Kylie And Kendall Jenner Begged To Be Friends With Rihanna, Rihanna Humiliated Them, Ordered Them To Stay Away”. Animated Times (bằng tiếng Anh). 26 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  159. ^ Team, Manic Metallic (27 tháng 8 năm 2019). “The Issue With The Modeling Industry's Nepotistic Culture”. MANIC METALLIC (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2022.
  160. ^ “Kendall Jenner – Model”. models.com. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2018.
  161. ^ “Gigi Hadid – Model”. models.com. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2018.
  162. ^ “New Supers List”. Models.com. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2015.
  163. ^ a b “12 Plus-Size Models Who've Made History”. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2016.
  164. ^ “Who Is Ashley Graham?”. 14 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2016.
  165. ^ “CAMILLE KOSTEK on Instagram: "Recently I experienced a situation that rattled me for a moment,so I wanted to take it to my page for whoever is open to reading.I made...". Instagram (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2019.
  166. ^ 'Sports Illustrated' model Camille Kostek was told to adjust her measurements”. www.yahoo.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 8 năm 2019.
  167. ^ “Miami Swim Week 2018 Diary: Day 1”. SI.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2019.
  168. ^ 'Sports Illustrated' cover star Camille Kostek shares cheeky rehearsal video”. www.yahoo.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2019.
  169. ^ "On runways, racial diversity is out". Guy Trebay. International Herald Tribune, 23 October 2007.
  170. ^ “7 Asian Models Changing the Face of Fashion”. fashiongonerogue. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2014.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Giới thiệu về Azuth Aindra và bộ Powered Suit trong Overlord
Giới thiệu về Azuth Aindra và bộ Powered Suit trong Overlord
Khả năng chính của Powered Suit là thay thế tất cả chỉ số của người mặc bằng chỉ số của bộ đồ ngoại trừ HP và MP
Cách Zoom Tăng Tỉ Lệ Chuyển Đổi Chỉ Với 1 Thay Đổi Trong Design
Cách Zoom Tăng Tỉ Lệ Chuyển Đổi Chỉ Với 1 Thay Đổi Trong Design
Bạn có thể sử dụng Zoom miễn phí (max 40p cho mỗi video call) hoặc mua gói Pro/Business dành cho doanh nghiệp.
Nhân vật Pochita - Chainsaw Man
Nhân vật Pochita - Chainsaw Man
Pochita (ポ チ タ Pochita?) hay Chainsaw Devil (チ ェ ン ソ ー の 悪 魔, Chensō no akuma) là hiện thân của nỗi sợ máy cưa
Hướng dẫn sử dụng Odin – Thor's Father Valorant
Hướng dẫn sử dụng Odin – Thor's Father Valorant
Trong không đa dạng như Rifle, dòng súng máy hạng nặng của Valorant chỉ mang tới cho bạn 2 lựa chọn mang tên hai vị thần