Trang bìa số ra ngày 8 tháng 2 năm 2012 | |
Tổng biên tập | Jess Cagle |
---|---|
Cựu tổng biên tập | Rick Tetzeli |
Thể loại | Giải trí |
Tần suất | Hàng tuần |
Số lượng phát hành hàng năm (2012) | 1.781.934 |
Sáng lập | David Morris |
Phát hành lần đầu | 16 tháng 2 năm 1990 |
Đơn vị chế bản | Công ty con Time trực thuộc Time Warner |
Quốc gia | Hoa Kỳ |
Trụ sở | Thành phố New York, New York |
Ngôn ngữ | Tiếng Anh |
Website | ew |
ISSN | 1049-0434 |
Số OCLC | 21114137 |
Entertainment Weekly (đôi khi được viết tắt là EW, tạm dịch Tạp chí Giải trí hàng tuần) là một tạp chí của Mỹ, do Time, công ty con trực thuộc Time Warner xuất bản, chuyên về các lĩnh vực điện ảnh, truyền hình, âm nhạc, kịch Broadway, sách và văn hoá đại chúng. Đây là ấn phẩm chị em với tạp chí People Weekly. Khác với các ấn phẩm tập trung vào các nhân vật nổi tiếng như Us Weekly, People Weekly đã nhắc đến ở trên, và In Touch Weekly, EW chủ yếu tập trung vào các tin tức của ngành truyền thông giải trí và các bài đánh giá chuyên môn. Khác với Variety và tờ The Hollywood Reporter, vốn chủ yếu hướng tới những người trong ngành, EW nhắm vào đối tượng độc giả đại chúng hơn.
Sáng tạo bởi Jeff Jarvis và thành lập bởi Michael Klingensmith, nhà xuất bản của Entertainment Weekly cho tới tháng 10 năm 1996,[1] chương trình quảng cáo trên truyền hình đầu tiên nhằm thu hút độc giả đặt mua sớm miêu tả đó là một cuốn cẩm nang cho người sử dụng về văn hoá đại chúng, bao gồm phim, nhạc, và các bài phê bình sách, đôi khi có cả các bài bình luận về trò chơi điện tử và kịch sân khấu nữa.[cần giải thích]
Số đầu tiên của tạp chí được xuất bản vào ngày 16 tháng 2 năm 1990, với hình ảnh ca sĩ k.d. lang trên bìa. Từ entertainment (giải trí) trong tiêu đề không được viết hoa trên trang bìa cho tới giữa năm 1992 và giữ nguyên như thế từ đó đến nay. Tính tới năm 2003, tổng lượng phát hành hàng tuần của tạp chí trung bình ở mức 1,7 triệu bản mỗi tuần. Vào tháng 3 năm 2006, tổng biên tập Rick Tetzeli giám sát một cuộc kiểm tra toàn diện các hình minh hoạ và bố cục của tạp chí nhằm giúp Entertainment Weekly phản ánh một góc nhìn hiện đại hơn.[cần dẫn nguồn]
Tạp chí in hình những nhân vật nổi tiếng trên trang bìa và đăng bài về các chủ đề như đánh giá tác phẩm truyền hình, doanh thu phim, kinh phí sản xuất, doanh thu vé hoà nhạc, kinh phí quảng cáo, và các bài viết sâu về lịch chiếu, các nhà sản xuất, những người tổ chức chương trình, v.v...
Tạp chí xuất bản một số "ấn phẩm đôi" định kỳ hàng năm (thường vào tháng 1, tháng 5, tháng 6 và/hoặc tháng 8) được bán tại các sạp báo trong hai tuần; bởi vì tạp chí đếm số ấn bản tuần tự, nên họ đếm mỗi ấn phẩm đôi là "hai" ấn phẩm để đáp ứng đúng số lượng 52 ấn bản một năm đã thoả thuận với những người đặt mua dài hạn.
Entertainment Weekly đi theo một format tạp chí điển hình: một bức thư gửi tổng biên tập và mục lục ở mấy trang đầu, cùng với quảng cáo. Trong khi có những quảng cáo không mấy liên quan gì tới ngành công nghiệp giải trí, thì phần lớn trong số các quảng cáo này thường là về các sự kiện âm nhạc, điện ảnh hay truyền hình sấp tới.
Các bài viết dưới đây thường mở đầu cuốn tạp chí và theo thông lệ, chúng tập trung vào các sự kiện đang diễn ra trong nền văn hoá đại chúng. Toàn bộ phần này thường chiếm từ tám đến mười trang, trong đó đăng các bài điểm tin ngắn, cùng với một số mục cụ thể sau:
Thông thường, có khoảng bốn đến sáu bài viết chính (mỗi bài dài từ một đến hai trang) nằm ở giữa tạp chí. Những bài viết này thường là các bài phỏng vấn, nhưng đôi khi cũng có những bài viết theo lối kể chuyện và các danh sách ở đây. Các bài viết chọn lọc thường chủ yếu nói về phim ảnh, âm nhạc và truyền hình, cũng có các bài về sách và kịch nhưng ít hơn. Trong lịch sử của tạp chí, chỉ có một số bài viết tường thuật (ví dụ, John Grisham, Stephen King) dành riêng cho một tác giả nào đó; còn chưa bao giờ có một bài tường thuật nào hoàn toàn nói về kịch/nhà hát.
Có bảy mục bình luận ở những trang sau của mỗi số (chiếm tổng cộng khoảng gần nửa số trang của tạp chí). Bên cạnh phần phê bình, mỗi mục bình luận có có một danh sách bán chạy nhất, cùng với nhiều cột nhỏ bên cạnh chứa các bài phỏng vấn hoặc một số bài viết nhỏ khác. Khác với một số tạp chí châu Âu thường đánh giá các tác phẩm dựa trên số sao (thường những tác phẩm xuất sắc nhất sẽ là 4 hoặc 5 sao), EW cho điểm theo phong cách học thuật, do đó bài phê bình tích cực nhất sẽ cho điểm bằng chữ cái "A" và những nhận xét tiêu cực nhất sẽ cho điểm "F", với dấu cộng (+) hoặc (-) thêm vào bên cạnh các chữ cái khi cần thiết ngoại trừ chữ "F".
Các mục đó bao gồm:
|
|
|
Số thứ 1.000 của tạp chí được phát hành ngày 4 tháng 7 năm 2008, trong đó có danh sách top 100 phim, show truyền hình, video âm nhạc, ca khúc, kịch Broadway và công nghệ do tạp chí bình chọn trong hai mươi lăm năm gần đây (1983–2008).
Kể từ số thứ 1.001, EW đã có một sự thay đổi căn bản về thiết kế bên ngoài, cảm nhận và nội dung của tạp chí—tăng kích cỡ font chữ, hình ảnh và giảm tổng số từ trong tất cả các cột báo.
Website của tạp chí EW.com, hoạt động dưới sự điều hành của tổng biên tập Cyndi Stivers (người thành lập TimeOut New York),[3] cung cấp cho người đọc các nội dung hàng ngày, tin nóng, blog, original video programming, entertainment exclusives và là nơi lưu trữ các bài phỏng vấn, bài báo và ảnh cũ của tạp chí. Cúng với một website, họ cũng có một đài phát thanh tên là Sirius XM.[4]
Vào tháng 4 năm 2011, EW.com được xếp hạng là website về Tin tức Giải trí phổ biến thứ bảy tại Mỹ bởi Media Metrix của công ty comScore.[cần dẫn nguồn]
Giải EWwy là một giải thưởng dành cho các sản phẩm truyền hình do Entertainment Weekly tổ chức nhằm vinh danh các diễn viên và series xứng đáng nhưng không được đề cử Giải Primetime Emmy.[5] Giải EWwy được trao cho mười hạng mục và không dành cho bất cứ ai đã được đề cử giải Primetime Emmy ở hạng mục tương đương. Các bình chọn và đề cử được tổng hợp trực tuyến bởi bất cứ ai quyết định tham gia. Các hạng mục đó bao gồm: Series chính kịch xuất sắc nhất (Best Drama Series); Series hài kịch xuất sắc nhất (Best Comedy Series); Nam diễn viên chính kịch xuất sắc nhất (Best Actor in a Drama Series); Nam diễn viên hài kịch xuất sắc nhất (Best Actor in a Comedy Series); Nữ diễn viên chính kịch xuất sắc nhất (Best Actress in a Drama Series); Nữ diễn viên hài kịch xuất sắc nhất (Best Actress in a Comedy Series); Nam diễn viên phụ chính kịch xuất sắc nhất (Best Supporting Actor in a Drama Series); Nam diễn viên phụ hài kịch xuất sắc nhất (Best Supporting Actor in a Comedy Series); Nữ diễn viên phụ chính kịch xuất sắc nhất (Best Supporting Actress in a Drama Series); và Nữ diễn viên phụ hài kịch xuất sắc nhất (Best Supporting Actress in a Comedy Series).