Siarhiej Vosipavič Prytycki

Siarhiej Vosipavič Prytycki
Chức vụ
Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia
Nhiệm kỳ22 tháng 1 năm 1968 – 13 tháng 6 năm 1971
Tiền nhiệmVasilij Ivanavič Kazloŭ
Kế nhiệmFiedar Anisimavič Surhanaŭ
Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia
Nhiệm kỳ1962 – 1968
Thông tin cá nhân
Danh hiệu
Sinh(1913-02-01)1 tháng 2, 1913
Harkawicze, tỉnh Grodno, Đế quốc Nga (Ba Lan ngày nay)
Mất13 tháng 6, 1971(1971-06-13) (58 tuổi)
Minsk, Byelorussia Xô viết, Liên Xô (Belarus ngày nay)
Đảng chính trịĐảng Cộng sản Liên Xô
Đảng khácĐảng Cộng sản Tây Belorussia
Binh nghiệp
ThuộcDu kích Liên Xô
Phục vụLiên Xô
Tham chiến

Siarhiej Vosipavič Prytycki[a] (1 tháng 2 năm 1913 – 13 tháng 6 năm 1971)[1] là nhà hoạt động cộng sản, chính khách và chỉ huy du kích Liên Xô người Belarus. Bắt đầu hoạt động cộng sản ở Tây Belorussia (thuộc Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan), sau khi Liên Xô xâm lược Ba Lan, ông trở thành chính trị gia cao cấp của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia.[2]

Thời thơ ấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Prytycki sinh ngày 1 tháng 2 năm 1913 tại Harkawicze (tiếng Belarus: Гаркавічы) trên biên giới Ba Lan-Belarus thuộc Đế quốc Nga,[1] là con trai thứ ba trong gia đình, bố làm bảo vệ trường học.[2] Năm 1914, gia đình ông chạy trốn đến Nizhny Shkaft ở Nga trước khi chiến sự Thế chiến thứ nhất lan đến.[3]

Hoạt động tại Tây Belorussia

[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1931, Prytycki làm Bí thư Đoàn thanh niên Komsomol của Đảng Cộng sản Tây Belorussia (tiếng Belarus: Камуністычная партыя Заходняй Беларусі, КПЗБ - KPZB) hoạt động ngầm tại Krynki thuộc Đệ Nhị Cộng hòa Ba Lan. Năm 1932, ông trở thành đảng viên và được bầu làm bí thư chi bộ ở Grodno. Năm 1933, Prytycki bị Ba Lan bắt giữ lần đầu và giam ở Grodno, nhưng sớm được thả.[4]

Năm 1933-1934, ông là ủy viên lãnh đạo Komsomol KPZB ở Slonim và lãnh đạo các thợ gỗ trong vùng đình công. Năm 1934-1935, ông theo học trường KPZB ở Minsk thuộc Liên Xô. Năm 1935, ông trở thành Bí thư Đoàn thanh niên Komsomol KPZB tại Slonim.

Ngày 27 tháng 1 năm 1936, Prytycki thực hiện ám sát bất thành đặc vụ Ba Lan[4][5][6] Jakub Strelczuk tại tòa án Vilnius, dùng hai khẩu súng lục ổ quay Nagant.[2] Vụ này do thủ lĩnh Komsomol KPZB Mikalaj Mikalajevič Dvornikaŭ lên kế hoạch và tổ chức và đích thân dự bị. Sau vụ nổ súng, Prytycki bị bắt và bị kết án tử hình. Bản án tử hình bị quốc tế phản đối rộng rãi tại Tây Belorussia, Ba Lan, Pháp, Tiệp KhắcHoa Kỳ.[5] Sau các cuộc biểu tình nổ ra, Ba Lan đổi bản án thành tù chung thân.

Tháng 9 năm 1939, sau khi Liên Xô xâm lược Ba Lan, Prytycki được tự do. Ông được bầu vào Quốc hội Nhân dân của Tây Belorussia và đưa ra bài thuyết trình đề nghị sáp nhập Tây Belorussia vào Liên Xô.[5]

Sự nghiệp ở Liên Xô

[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi Tây Belorussia hợp nhất vào Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Byelorussia, cuối năm 1939, Prytycki được bổ nhiệm làm phó chủ tịch ủy ban điều hành của vùng Belastok mới thành lập.

Sau Chiến dịch Barbarossa tháng 6 năm 1941, Prytycki trốn sang đông Belarus do Liên Xô kiểm soát. Tháng 6-8 năm 1941, ông lãnh đạo việc chuẩn bị phòng thủ quanh Mogilev và thành lập lực lượng dân quân phòng vệ gần Gomel.[5]

Năm 1942-1944, Prytytski là Bí thư thứ nhì Ủy ban Trung ương chi bộ Komsomol Byelorussia. Năm 1944-1945, ông đứng đầu ban chỉ huy quân kháng chiến Ba Lan thân Liên Xô.[5] Với công tác chỉ huy du kích Ba Lan, ông được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ.[4]

Sau khi Thế chiến II kết thúc, Prytycki là một trong những chính khách thành công nhất trong số các nhà hoạt động thân Liên Xô tại Tây Belorussia trước đây.[6]

Ông từng là lãnh đạo chi bộ cộng sản tại Grodno, Baranavichy, MaladzyechnaMinsk.[5] Ông chính là người tổ chức tập thể hóa nông nghiệp địa phương. Trong những năm đầu sau chiến tranh, Prytycki suýt bị bắt vì cáo buộc hoạt động gián điệp cho Ba Lan chống Liên Xô.[4]

Thập niên 1960, Prytycki giữ các chức vụ cao cấp cao tại Byelorussia Xô viết.

Năm 1962-1968, ông là Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Belorussia và Phó chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Byelorussia.

Năm 1968-1971, Prytycki là Chủ tịch Đoàn chủ tịch Xô viết tối cao Byelorussia.[7]

Trong văn hóa đại chúng

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Năm 1958, đạo diễn Byelorussia Xô viết nổi tiếng Vladimir Korsh-Sablin làm phim Lá đỏ (Belarusfilm) kể về giai đoạn hoạt động ngầm tại Tây Belorussia.
  • Có những con phố được đặt theo tên Prytycki ở Minsk, Hrodna, MaladziečnaBaranavičy (Vulica Prytyckaha).[7]
  • Có hai bảng tưởng niệm trên tường những tòa nhà nơi ông sống tại Minsk.
  • Năm 1978, xuất bản sách "Hiến dâng đời cho nhân dân" tuyển tập các bài báo, bài phát biểu, tài liệu và hồi ký của Prytycki.
  1. ^ tiếng Belarus: Сяргей Восіпавіч Прытыцкі; tiếng Ba Lan: Sergiusz Prytycki; tiếng Nga: Сергей Осипович Притыцкий, chuyển tự Sergey Osipovich Pritytsky

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b Rąkowski 2005, tr. 211.
  2. ^ a b c Andrzej Poczobut, Joanna Klimowicz (tháng 6 năm 2011). “Białostocki ulubieniec Stalina” (PDF file, direct download 2.40 MB). Ogólnokrajowy tygodnik SZ «Związek Polaków na Białorusi» (bằng tiếng Ba Lan). Głos znad Niemna. tr. 6–7. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2024.
  3. ^ “Школа улиц Сергея Притыцкого”. Советская Белоруссия (bằng tiếng Nga). tháng 6 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2024.
  4. ^ a b c d Ioffе, Emanuil (tháng 6 năm 2008). “Сергей Притыцкий: хроника жизни” (PDF). Bielaruskaja Dumka (bằng tiếng Nga). BelTA. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2024.
  5. ^ a b c d e f “Притыцкий Сергей Осипович”. Нацыянальны гістарычны архіў Беларусі (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2013.
  6. ^ a b Mikulevic, Siarhiej (16 tháng 2 năm 2008). “Шчаслівы лёс беларускага тэрарыста нумар адзін”. Nasha Niva (bằng tiếng Belarus). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2024.
  7. ^ a b “Рэпрэсаваныя літаратары, навукоўцы, работнікі асветы, грамадскія і культурныя дзеячы Беларусі. 1794-1991. » Том II » ПРЫТЫЦКІ Сяргей Восіпавіч”. marakou.by (bằng tiếng Belarus). Leanid Marakou. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016.

Thư mục

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Rąkowski, Grzegorz (2005), Polska egzotyczna, Part 1 (bằng tiếng Ba Lan), Oficyna Wydawnicza "Rewasz", ISBN 9788389188373

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Tôi thích bản thân nỗ lực như thế
Tôi thích bản thân nỗ lực như thế
[RADIO NHUỴ HY] Tôi thích bản thân nỗ lực như thế
Hứa Quang Hán - Tỏa sáng theo cách riêng biệt
Hứa Quang Hán - Tỏa sáng theo cách riêng biệt
Hứa Quang Hán sinh ngày 31/10/1990 - mọi người có thể gọi anh ta là Greg Hsu (hoặc Greg Han) nếu muốn, vì đó là tên tiếng Anh của anh ta.
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
That Time I Got Reincarnated as a Slime: Trinity in Tempest
Trinity in Tempest mang đến cho độc giả những pha hành động đầy kịch tính, những môi trường phong phú và đa dạng, cùng với những tình huống hài hước và lôi cuốn
[Visual Novel] White Album 2 Tiếng Việt
[Visual Novel] White Album 2 Tiếng Việt
Đây là bài đầu tiên mà tôi tập, và cũng là bài mà tôi đã thuần thục