Steve Albini

Steve Albini
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhSteven Frank Albini
Sinh(1962-07-22)22 tháng 7 năm 1962
Pasadena, California, Hoa Kỳ
Nguyên quánChicago, Illinois, Hoa Kỳ
Mất7 tháng 5 năm 2024(2024-05-07) (61 tuổi)
Chicago, Illinois, Hoa Kỳ
Thể loại
Nghề nghiệp
Nhạc cụ
Năm hoạt động1981–2024
Hãng đĩaTouch and Go
Hợp tác với

Steven Frank "Steve" Albini (phát âm: /ælˈbni/; 22 tháng 7 năm 1962  – 7 tháng 5 năm 2024) là một ca sĩ-người viết bài hát, nhạc công guitar, nhà sản xuất thu âm, kỹ thuật viên âm thanhnhà báo âm nhạc. Ông là cựu thành viên của Big Black, RapemanFlour, và là thành viên hiện tại của Shellac.[1] Ông cũng là người thành lập, sở hữu của Electrical Audio, một phòng thu âm tọa lạc tại Chicago. Tháng 3, 2004, Albini nói rằng số album mà ông đã góp phần vào "có lẽ tới tận 1500."[2]

Ông qua đời ở tuổi 61 vì một cơn đau tim tại nhà riêng ở Chicago, vào ngày 7 tháng 5 năm 2024.[3]

Tuổi thơ và trước sự nghiệp âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Albini được sinh ra ở Pasadena, California bởi Gina (nhủ danh Martinelli) và Frank Addison Albini. Bố ông là một nhà nghiên cứu tự nhiên.[4][5][6][7] Khi còn bé, gia đình của Albini thường xuyên chuyển nhà, trước khi định cư tại Missoula, Montana năm 1974.[4] Albini là người Mỹ gốc Ý và một phần của gia đình ông đến từ vùng Piedmont của Bắc Mỹ.[5]

Khi đang dưỡng thương sau khi bị gãy chân, Albini bắt đầu tập đánh guitar bass. Theo Looking for a Thrill của Thrill Jockey, một người bạn cùng trường đã giới thiệu punk rock cho Albini khi ông 14 hoặc 15 tuổi, sau đó, ông mua tất cả những đĩa nhạc của Ramones có thể mua được.[4][8]

Tại Montana, ông trở thành fan The Stooges, the Ramones, Television, Suicide, Wire, The Fall, The Velvet Underground, Throbbing Gristle, Kraftwerk, The Birthday Party, Pere Ubu, Public Image Ltd, Rudimentary Peni, và Killing Joke.[9]

Sau khi tốt nghiệp trung học Hellgate,[4] Albini chuyển tới Evanston, Illinois, vào học trường báo chí Medill tại Đại học Northwestern (NU).[10] Albini nói ông học vẽ ở đại học cùng Ed Paschke, người mà ông cho là một nhà giáo tài giỏi và "một trong số ít người ở đại học đã dạy tôi bất cứ thứ gì."[11]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhạc công

[sửa | sửa mã nguồn]

1981–1987: Big Black

[sửa | sửa mã nguồn]

1987–1988: Rapeman

[sửa | sửa mã nguồn]

1992–nay: Shellac

[sửa | sửa mã nguồn]

Nhà sản xuất và kỹ thuật viên

[sửa | sửa mã nguồn]
Steve Albini bên phải, với Ani DiFrancoRZA tại The New Yorker festival tháng 9 năm 2005

Albini hoạt động nhiều nhất dưới vai trò nhà sản xuất thu âm; tuy nhiên, ông không thích việc được gọi là "nhà sản xuất".[12] Và thường được ghi rằng có vai trò là "kỹ thuật viên thu âm."[13]

Tới năm 2004, Albini ước tính rằng đã làm làm việc cho 1.500 album, đa số bởi những nghệ sĩ ít được biết đến.[2] Những nghệ sĩ nổi bật mà Albini đã hợp tác là: Foxy Shazam,[14] Nirvana,[15] Pixies,[16] The Breeders, Godspeed You! Black Emperor, Mogwai, The Jesus Lizard, Don Caballero, PJ Harvey, The Wedding Present, Joanna Newsom, Superchunk, Low, Dirty Three, Jawbreaker, Neurosis, Cloud Nothings, Bush,[17] Chevelle,[18] Robert PlantJimmy Page,[19] Helmet,[20] Fred Schneider,[21] The Stooges,[22] Owls,[23] Manic Street Preachers,[24] Jarvis Cocker,[25] The Cribs,[26] The Fleshtones,[27] Nina Nastasia,[28] The Frames,[29] The Membranes,[30] Cheap Trick,[31] Motorpsycho,[32] Slint,[33] mclusky,[34] Labradford,[35] Veruca Salt,[36] Zao,[37]The Auteurs.[38]

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Bush, John. “Biography: Steve Albini”. AllMusic. All Media Network, LLC. Truy cập ngày 6 tháng 9 năm 2011.
  2. ^ a b Young, Andrew (ngày 12 tháng 3 năm 2004). “Steve Albini”. Lecture at Middle Tennessee State University. Bản gốc (Originally published in MTSU Sidelines, March 16th, 2004. This is the unedited final draft of the story, with unpublished material.) lưu trữ ngày 10 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2014. Records became more and more produced, and more and more layers of more abstract sounds were added
  3. ^ Sisario, Ben (8 tháng 5 năm 2024). “Steve Albini, Influential Producer of '90s Rock and Beyond, Dies at 61”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 5 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2024.
  4. ^ a b c d Thorn, Jesse (ngày 6 tháng 12 năm 2007). “Podcast: Live in Chicago: Steve Albini” (podcast). Bullseye with Jesse Thorn. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2014.
  5. ^ a b Albini, Steve (ngày 30 tháng 5 năm 2011). “Strozzapreti-Gemelli with Tomato, Shallot and Mint”. Mario Batali Voice. Bản gốc (blog) lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  6. ^ Kovacs Henderson, Andrea (2009). American men & women of science: a biographical directory of today's leaders in physical, biological, and related sciences (eBook, biography) (ấn bản thứ 26). Detroit: Gale. tr. 71. ISBN 9781414457260. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  7. ^ Shatkin, Elina (ngày 24 tháng 1 năm 2012). “Steve Albini Has A Food Blog”. LA Weekly. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2013.
  8. ^ “Looking for a Thrill: An Anthology of Inspiration”. Thrill Jockey. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  9. ^ Azerrad, Michael (2001). Our band could be your life: scenes from the American indie underground 1981–1991 (ấn bản thứ 1). Boston: Little, Brown. ISBN 9780316063791. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2014.
  10. ^ “Staff & Friends – Steve Albini”. Electrical Audio. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  11. ^ Carlson, Jen (ngày 28 tháng 9 năm 2011). “Nirvana Producer Steve Albini Tells Us How He Really Feels About NYC”. Gothamist. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  12. ^ Heylin, Clinton (1992). The Penguin book of rock & roll writing (ấn bản thứ 1). London, UK: Penguin Group. ISBN 9780670845590. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2014.
  13. ^ Herman, Maureen (ngày 13 tháng 5 năm 2014). “Who Cares What Steve Albini Thinks? You Probably Do”. BoingBoing.net.
  14. ^ Crystal Brown (ngày 27 tháng 11 năm 2013). “FOXY SHAZAM: THE NEXT GREAT PHENOMENON?”. CincyMusic.com. CincyMusic, LLC. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2014.
  15. ^ Sujata Murthy; Steve Martin (ngày 30 tháng 7 năm 2013). “Nirvana: In Utero 20th Anniversary Multi-Format Reissue Out September 24”. Reuters. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  16. ^ Jason Heller (ngày 30 tháng 7 năm 2014). “Steve Albini's 10 Best Records”. Pitchfork. Pitchfork Media. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  17. ^ Tom Breihan (ngày 26 tháng 1 năm 2012). “The Top 20 Steve Albini-Recorded Albums”. Stereogum. SpinMedia. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  18. ^ “Point #1 – Epk” (Video upload). WaLLy on YouTube. Google Inc. ngày 28 tháng 2 năm 2006. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  19. ^ “Steve Albini: "I'd do another Jimmy Page and Robert Plant album in a heartbeat". Uncut. Time Inc. (UK) Ltd Entertainment Network. tháng 10 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  20. ^ Miranda Yardley (ngày 4 tháng 4 năm 2012). “DARK RECOLLECTIONS: Helmet”. Terrorizer. Terrorizer. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  21. ^ Joseph Neff (ngày 14 tháng 3 năm 2013). “Graded on a Curve: Fred Schneider, Just...Fred”. The Vinyl District. Mom & Pop Shop Media. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  22. ^ “Steve Albini talks about recording The Stooges album The Weirdness.mp4” (Video upload). FleaVids on YouTube. Google Inc. ngày 14 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  23. ^ Logan Jourgenson (ngày 14 tháng 9 năm 2012). “Some of Missoula native Steve Albini's lesser albums still worth a listen”. The Billings Gazette. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  24. ^ Jonathan Garrett (ngày 30 tháng 3 năm 2009). “Manic Street Preachers "Peeled Apples". Pitchfork. Pitchfork Media, Inc. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  25. ^ Ryan Dombal (ngày 6 tháng 3 năm 2009). “Jarvis Cocker Returns With Steve Albini-Produced LP”. Pitchfork. Pitchfork Media, Inc. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  26. ^ Ryan Bassil (ngày 24 tháng 2 năm 2012). “The Cribs: The new record addresses a lot of unexorcised demons”. The Independent. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  27. ^ John D. Luerssen (ngày 3 tháng 2 năm 2014). “Fleshtones Celebrate 'Hipster Heaven' – Song Premiere”. Rolling Stone. Rolling Stone. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  28. ^ “Nina Nastasia Once Again Pairs Up with Steve Albini for New Album”. Exclaim.ca. Exclaim.ca. ngày 17 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  29. ^ Joe Tangari (ngày 29 tháng 1 năm 2002). “The Frames For the Birds”. Pitchfork. Pitchfork Media, Inc. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  30. ^ John Robb (ngày 4 tháng 3 năm 2012). “Steve Albini: In Depth Interview”. Louder Than War. Louder Than War. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  31. ^ “Cheap Trick In Color mix by Steve Albini”. Review Stalker. Review Stalker. ngày 28 tháng 5 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  32. ^ Matt Kerry (ngày 24 tháng 4 năm 2013). “Motorpsycho – Still Life With Eggplant”. echoes and dust. echoes and dust. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  33. ^ Stuart Berman (ngày 16 tháng 4 năm 2014). “Slint Spiderland”. Pitchfork. Pitchfork Media, Inc. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  34. ^ Chris Dahlen (ngày 19 tháng 9 năm 2002). “Mclusky Do Dallas”. Pitchfork. Pitchfork Media, Inc. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  35. ^ Kitty Empire (ngày 12 tháng 9 năm 2005). “Labradford: Fixed Content”. NME. Time Inc. (UK) Ltd Entertainment Network. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  36. ^ Thomas Michalski (ngày 11 tháng 7 năm 2014). “Veruca Salt w/ Battleme @ Turner Hall Ballroom”. Express Milwaulkee. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  37. ^ “ZAO announce album title”. Roadrunner Records. Roadrunner Records. ngày 7 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.
  38. ^ Matthew Shearn (ngày 17 tháng 6 năm 2014). “Steve Albini Interview”. Figure 8. Figure 8. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Danh sách những người sở hữu sức mạnh Titan trong Shingeki no Kyojin
Danh sách những người sở hữu sức mạnh Titan trong Shingeki no Kyojin
Sức mạnh Titan được kế thừa qua nhiều thế hệ kể từ khi bị chia ra từ Titan Thủy tổ của Ymir Fritz
Cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của “Sao Băng” Uraume
Cùng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của “Sao Băng” Uraume
Là người thân cận nhất với Ryomen Sukuna đến từ một nghìn năm trước. Mặc dù vẫn có khoảng cách nhất định giữa chủ - tớ, ta có thể thấy trong nhiều cảnh truyện tương tác giữa hai người
Tổng quan về Ma Tố trong Tensura
Tổng quan về Ma Tố trong Tensura
Ma Tố, mặc dù bản thân nó có nghĩa là "phân tử ma pháp" hoặc "nguyên tố ma pháp", tuy vậy đây không phải là ý nghĩa thực sự của nó
Đàn ông có để ý đến việc phụ nữ bị béo không?
Đàn ông có để ý đến việc phụ nữ bị béo không?
Cùng xem các bạn nam có quan tâm đến cân nặng không nhé