Tương tác giữa con người và robot đã là một lĩnh vực nghiên cứu của cả khoa học viễn tưởng và học thuật ngay cả trước khi bất kỳ robot nào tồn tại. Bởi vì phần lớn sự phát triển HRI chủ động phụ thuộc vào quá trình xử lý ngôn ngữ tự nhiên, nhiều khía cạnh của HRI là sự liên tục của giao tiếp con người, một lĩnh vực nghiên cứu lâu đời hơn nhiều so với lĩnh vực robot.
Nguồn gốc của HRI như một lĩnh vực nghiên cứu riêng rẽ đã được tác giả thế kỷ 20 Isaac Asimov nêu ra vào năm 1941, trong cuốn tiểu thuyết I, Robot của ông. Ông phát biểu Ba định luật của người máy là:
Robot không được gây thương tích cho con người hoặc thông qua hành động không cho phép con người gây hại.
Robot phải tuân theo mệnh lệnh do con người ngoại trừ trường hợp mệnh lệnh đó xung đột với Luật thứ nhất.
Robot phải bảo vệ sự tồn tại của chính mình miễn là sự bảo vệ đó không mâu thuẫn với Luật thứ nhất hoặc thứ hai.[1]
Ba luật này cung cấp một cái nhìn tổng quan về các mục tiêu mà các kỹ sư và nhà nghiên cứu hướng tới về sự an toàn trong lĩnh vực HRI, mặc dù các lĩnh vực đạo đức robot và đạo đức máy phức tạp hơn ba nguyên tắc này. Tuy nhiên, nhìn chung tương tác giữa con người và robot ưu tiên sự an toàn của con người tương tác với thiết bị robot nguy hiểm tiềm ẩn. Các giải pháp cho vấn đề này bao gồm từ cách tiếp cận triết học coi rô bốt như những tác nhân đạo đức (cá nhân có đạo đức), đến cách tiếp cận thực tế là tạo ra vùng an toàn. Các vùng an toàn này sử dụng các công nghệ như lidar để phát hiện sự hiện diện của con người hoặc các rào cản vật lý để bảo vệ con người bằng cách ngăn chặn bất kỳ sự tiếp xúc nào giữa máy móc và người vận hành.[2]
Mục tiêu của sự tương tác thân thiện giữa con người và robot
Human-Robot Interaction - An Introduction by Christoph Bartneck, Tony Belpaeme, Friederike Eyssel, Takayuki Kanda, Merel Keijsers, Selma Šabanović, Cambridge University Press (PDF miễn phí) [3]
Human-Robot Interaction in Social Robotics by Takayuki Kanda & Hiroshi Ishiguro, CRC Press [4]
Social Robotics by Breazeal C., Dautenhahn K., Kanda T., Springer (chapter in an extensive handbook)[5]
^Asimov, Isaac (1950). “Runaround”. I, Robot (bằng tiếng Anh) . New York City: Doubleday. tr. 40. ISBN978-0-385-42304-5. This is an exact transcription of the laws. They also appear in the front of the book, and in both places there is no "to" in the 2nd law. Note that this snippet has been copy-pasted from Three Laws of Robotics
^Hornbeck, Dan (21 tháng 8 năm 2008). “Safety in Automation”. www.machinedesign.com. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2020.
^Bartneck, Christoph; Belpaeme, Tony; Eyssel, Friederike; Kanda, Takayuki; Keijsers, Merel; Šabanović, Selma (2019). Human-Robot Interaction - An Introduction. Cambridge: Cambridge University Press. ISBN9781108735407. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2020.
^Kanda, Takayuki (2012). Human-Robot Interaction in Social Robotics. CRC Press. ISBN9781466506978.
^Breazeal, Cynthia; Dautenhahn, Kerstin; Takayuki, Kanda (2016). “Social Robotics”. Trong Siciliano, Bruno; Khatib, Oussama (biên tập). Springer Handbook of Robotics. Berlin: Springer. tr. 1935–1972. ISBN9783319325507.
Công tước Leto của Gia tộc Atreides – người cai trị hành tinh đại dương Caladan – đã được Hoàng đế Padishah Shaddam Corrino IV giao nhiệm vụ thay thế Gia tộc Harkonnen cai trị Arrakis.
Mặc dù Kaeya sở hữu base ATK khá thấp so với mặt bằng chung (223 ở lv 90 - kém khá xa Keqing 323 ở lv 90 hay Qiqi 287 ờ lv 90) nhưng skill 1 của Kaeya có % chặt to