Trận Tỉnh Hình | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của chiến tranh Hán-Sở | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Nước Hán | Nước Triệu | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Hàn Tín |
Triệu Yết Trần Dư | ||||||
Lực lượng | |||||||
Tổng số 30.000 binh sĩ tinh nhuệ và chủ lực của quân Nam Đường Hán không dưới 70.000 | 200.000 | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
Không rõ | Hơn 150.000 |
Trận Tỉnh Hình (chữ Hán: 井陘之戰, Tỉnh Hình chi chiến), còn được biết đến là trận Hàn Tín phá Triệu, là một trận đánh diễn ra vào năm 204 TCN tại Trung Quốc thời cổ đại. Trong trận này, danh tướng của nhà Hán là Hàn Tín chỉ huy không đến bốn vạn quân[1] nhưng đã đánh thắng quân Triệu đông trên mười vạn người [1] dưới quyền thống lĩnh của tướng Trần Dư.
Năm 207 TCN các cuộc khởi nghĩa lật đổ nhà Tần đã đưa Trung Quốc rơi vào tình trạng hỗn chiến, tranh giành quyền bính lẫn nhau. Mạnh hơn cả là nhà Hán và nhà Sở. Tháng 4 năm 205 TCN nước Ngụy (miền tây nam tỉnh Sơn Tây ngày nay); nước Triệu (miền đông nam tỉnh Hà Bắc ngày nay); Nước Tề (miền đông bắc tỉnh Sơn Đông ngày nay) đi theo Hán đánh Sở. Nhưng khi thấy Lưu Bang (Hán Cao Tổ) bị bại ở Bành Thành phải lui về án ngữ ở Thành Cao, 3 nước này giở mặt đi theo Sở đánh lại Hán.
Theo Sử Ký Sau khi quân Hán bị thua trận ở Bành Thành, Tắc vương là Hàn và Địch vương là Ế bỏ Hán đầu hàng Sở. Nước Tề nước Triệu cũng phản lại Hán mà hòa với Sở. Tháng sáu, Ngụy vương là Báo... liền cắt đường giao thông ở Hà Quan, phản lại Hán, giao hiếu với Sở. Quân Hán phòng ngự trên tuyến Thành Cao - Huỳnh Dương bỗng nhiên lâm vào thế bị uy hiếp ở cạnh sườn. Muốn giành quyền chủ động và phá thế bị uy hiếp ở sườn, đồng thời tạo được thế chiến lược bao vây và tấn công quân Sở, Lưu Bang cử Hàn Tín từ Lạc Dương (miền đông bắc huyện Lâm Đồng tỉnh Thiểm Tây ngày nay) cấp tốc tiến về đông bắc đánh các nước Ngụy; Triệu và Tề.
Sau khi diệt xong nước Ngụy và nước Đại (ở phía bắc nước Triệu), thế thắng như chẻ tre.
Theo lệnh Lưu Bang, Hàn Tín đã rút một bộ phận về mặt trận Thành Cao để chống lại quân Sở. Sau đó, Hàn Tín cùng mấy vạn quân còn lại kéo vào biên giới nước Triệu.
Tỉnh Kinh là một trong những cửa hiểm yếu của núi Thái Hành và sông Chi Thủy (dãy núi ở phía tây tỉnh Hà Bắc ngày nay). Muốn qua vùng núi này chỉ có một đường độc đạo nhỏ hẹp, gồ ghề. Địa điểm này có tầm quan trọng cả với quân phòng ngự và quân tấn công. Quân Hán tiến đánh nước Triệu tất phải vượt qua con đường này, khi từ phía tây kéo vào sẽ vấp phải cái chốt của quân Triệu trước cửa Tỉnh Kinh (Sử ký Tư Mã Thiên gọi là Tỉnh Hình).
Về phía quân Triệu. Lý Tả Xa là mưu sĩ của nước Triệu bàn với Trần Dư nên dùng "xuất kỳ, cố thủ" để phá cuộc tiến công của Hàn Tín. Ông cho rằng quân Hán đi xa nước mà đánh... vận lương nghìn dặm, quân sĩ có dáng đói, đợi hái củi, cắt cỏ mà nấu ăn, lính tráng không được no. Nay đường ở tỉnh Hình, không thể đi hai xe một lần. Quân kỵ không thể sắp thành hàng, đi vài trăm dặm thì thế nào lương thực cũng tụt lại sau[4]
Từ nhận định trên, Lý Tả Xa chủ trương phòng ngự tích cực có cố thủ chốt giữ, có xuất kích vu hồi vào sau lưng đối phương chứ không chủ trương án binh bất động như Trần Dư. Lý Tá Sa vạch ra kế hoạch tác chiến đệ trình lên Trần Dư:
Về phía quân Hán Hàn Tín đã sớm phát hiện và phán đoán được đúng ý đồ của Trần Dư, mặc dù ít quân, mệt mỏi, không được lợi thế nhưng vẫn giữ vững quyết tâm tiến thẳng vào nước Triệu và dùng lối đánh sở trường: đánh dứ ở trước mặt kết hợp với thọc sâu vu hồi đánh vào sau lưng, để kéo quân Triệu ra khỏi chốt đánh đòn tiêu diệt ở trận địa đã được chuẩn bị sẵn. Khi còn cách cửa tỉnh Kinh 30 dặm, Hàn Tín cho quân dừng lại cắm trại nhằm chuẩn bị thêm và thẩm tra lại lần cuối tình hình quân Triệu. Thấy ý đồ Trần Dư không thay đổi, ngay từ nửa đêm hôm đó, Hàn Tín đã bày xong thế trận hình chữ U. Với cách bố trí lực lượng như sau:
Trời vừa rạng đông, từ xa nhìn thấy Hàn Tín bày trận "Bối Thủy", Trần Dư cho là Hàn Tín chẳng hiểu gì về binh pháp, đã dại dột đưa quân Hán vào chỗ chết. Ông càng chủ quan chẳng chú ý gì đến đội tiên phong của quân Hán và cũng chẳng quan tâm gì đến việc phòng bị ở cạnh sườn.
Hàn Tín trống dong cờ mở dẫn chủ lực (đội tiên phong) tiến thẳng vào cửa Tỉnh Kinh.
Trần Dư liền mở cửa lũy cho quân Triệu xuất kích. Hai bên đánh nhau to một hồi. Hàn Tín lệnh cho quân bỏ chạy, để lại cờ, trống, vũ khí nhiều vô kể và hối hả lui về trận địa "Bối Thủy".
Trần Dư nghĩ đây là thời cơ có một không hai để tiêu diệt quân Hán, thế là ông tung hết quân ra để truy kích (cả số quân Triệu chốt giữ ở trong cửa tỉnh Kinh cũng được lệnh đổ ra hết). Quân Triệu tranh nhau cướp cờ, thu vũ khí và đồ vật của quân Hán bỏ lại, reo hò vang động cả một góc trời. Vậy là (Trần Dư đã bị lừa và thời cơ tiêu diệt quân Triệu của Hàn Tín đã xuất hiện).
Chủ lực quân Hán sau khi lui về đến trận địa "Bối Thủy" liền phối hợp với quân đóng ở đó, cùng với một lực lượng dự bị bố trí sẵn ở bên sườn trái trận địa "Bối Thủy". Bất ngờ quay lại phản kích mãnh liệt vào quân Triệu. Quân Hán xông lên chia cắt quân Triệu mặc dù quân Triệu đông hơn gấp bội. Trận đánh diễn ra giằng co quyết liệt.
Thừa lúc quân Triệu vừa rời ra khỏi hết thành lũy, hai ngàn quân kỳ của Hàn Tín đã nhanh chóng ập vào đánh úp và cắm hai ngàn lá cờ đỏ của quân Hán lên. Đồng thời lúc đó, trước sức chống trả ngoan cường và phản kích mãnh liệt của quân Hán ở "Bối Thủy", quân Triệu thấy khó giành được thắng lợi, sinh nản lòng và muốn lui quân về. Nhưng lại nhìn thấy cờ quân Hán tung bay đỏ rực cả thành lũy cửa tỉnh Kinh, quân Triệu mất tinh thần, đội hình hỗn loạn, mạnh ai nấy chạy, không sao ngăn được.
Thấy quân Triệu hỗn loạn, bỏ chạy, không bỏ lỡ thời cơ, quân Hán liền từ hai mặt tiến công mãnh liệt, diệt gần hết số quân Triệu, trong đó có đại tướng Trần Dư, bắt sống được vua Triệu là Yết và mưu sĩ Lý Tả Xa. Quân Hán toàn thắng, Hàn Tín tức tốc kéo quân vào bình định nước Triệu.
Trận Hàn Tín phá Triệu đã xảy ra cách đây hơn hai ngàn hai trăm năm nhưng nó đã được các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự thời nay đánh giá cao. Họ đều nhất trí cho rằng Hàn Tín dù thế và lực không bằng Trần Dư, nhưng do khéo dùng mưu lập thế tạo thời, khéo biết cách đánh lừa đối phương phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, nên chỉ đánh có một trận đã lấy được Tỉnh Hình, chưa trọn buổi sáng đã phá được 10 vạn quân Triệu, giết cả Thành An Quân Trần Dư. "Danh tướng nổi tiếng trong nước, uy thế rung động thiên hạ". Đó là nhờ phép dùng binh tài giỏi của Hàn Tín, bày một thế trận có lợi cho mình, phá được thế trận của đối phương, buộc đối phương phải đánh ở trận địa mà mình đã chuẩn bị, cụ thể có ba thế là: Thế chặn, Thế công, Thế hiểm.
Ba thế trên có mối quan hệ chặt chẽ hỗ trợ trực tiếp cho nhau và tác động lẫn nhau hợp thành một chỉnh thể sức mạnh của quân Hán trong thế trận "Bối Thủy", tạo cho Hàn Tín thế chủ động hoàn toàn, phát huy được ưu thế sức mạnh của gần 4 vạn quân có trong tay, mặc dù vừa từ xa ngàn dặm tới. Thực tiễn cho thấy Hàn Tín giành và giữ thế chủ động trong suốt trận đánh: triển khai thế trận, lựa chọn thời cơ, thực hiện phương pháp và thủ đoạn tiến công, thực hiện các bước và toàn bộ nhiệm vụ của trận đánh. Đó là mưu kế điều địch, buộc địch phải đi vào kế của mình. Như thế là tạo được bất ngờ, tạo được chủ động. Còn quân Triệu thì lại rơi vào thế bị động hoàn toàn.