Ảnh vẽ tàu vũ trụ Ulysses bên trong các hành tinh vòng trong | |
Nhà đầu tư | NASA / ESA |
---|---|
COSPAR ID | 1990-090B |
SATCAT no. | 20842 |
Trang web | NASA Page ESA Page |
Thời gian nhiệm vụ | 18 năm, 8 tháng và 24 ngày |
Các thuộc tính thiết bị vũ trụ | |
Khối lượng phóng | 370 kg (820 lb) |
Công suất | 285 W |
Bắt đầu nhiệm vụ | |
Ngày phóng | 11:47:16, 6 tháng 10 năm 1990 |
Tên lửa | Tàu con thoi Discovery (STS-41) cùng với Inertial Upper Stage và PAM-S |
Địa điểm phóng | KSC Launch Complex 39B |
Kết thúc nhiệm vụ | |
Cách loại bỏ | Không hoạt động nữa |
Dừng hoạt động | 30 tháng 6 năm 2009 |
Các tham số quỹ đạo | |
Hệ quy chiếu | Nhật tâm |
Độ lệch tâm quỹ đạo | 0,60262 |
Cận điểm | 1,35 AU |
Viễn điểm | 5,4 AU |
Độ nghiêng | 79,11° |
Chu kỳ | 2.264,26 ngày (6,2 năm) |
Kỷ nguyên | 12:00:00, 24 tháng 2 năm 1992 |
Bay qua Sao Mộc (trợ giúp trọng lực) | |
Tiếp cận gần nhất | 8 tháng 2 năm 1992 |
Khoảng cách | 6,3 lần bán kính Sao Mộc (279,865 mi) |
Huy hiệu hệ mặt trời ESA cho nhiệm vụ Ulysses |
Ulysses là một tàu robot thăm dò không gian không còn hoạt động nữa có nhiệm vụ chính là quay quanh Mặt trời và nghiên cứu nó ở mọi vĩ độ. Nó được phóng vào năm 1990, thực hiện ba lần "quét vĩ độ nhanh" của Mặt trời vào 1994/1995, 2000/2001, và 2007/2008. Thêm nữa, tàu thăm dò nghiên cứu một số sao chổi. Ulysses là một dự án chung của NASA và Cơ quan vũ trụ Châu Âu (ESA) với sự tham gia từ Hội đồng nghiên cứu quốc gia của Canada.[1] Ngày cuối cùng thực hiện nhiệm vụ với Ulysses là ngày 30 tháng 6 năm 2009.[2]
Để nghiên cứu Mặt trời ở mọi vĩ độ, tàu thăm dò cần thay đổi độ nghiêng quỹ đạo của nó và rời khỏi Hoàng đạo – để thay đổi độ nghiêng quỹ đạo của một con tàu vũ trụ thì cần phải có một sự thay đổi lớn ở vận tốc nhật tâm. Tuy nhiên, lượng thay đổi vận tốc cần thiết để đạt được một quỹ đạo nghiêng cao khoảng 80° thì vượt quá khả năng của bất cứ tên lửa đẩy nào. Do đó, để đạt được quỹ đạo mong muốn quanh Mặt trời, một kế hoạch hỗ trợ hấp dẫn quanh Sao Mộc được lựa chọn, nhưng việc gặp Sao Mộc có nghĩa là tàu Ulysses không thể được cấp năng lượng bằng pin mặt trời – tàu thăm dò thay vào đó được cấp năng lượng bởi một máy phát nhiệt điện đồng vị phóng xạ (RTG).
Con tàu vũ trụ ban đầu được đặt tên là Odysseus do chiều dài của nó và quỹ đạo gián tiếp nhằm nghiên cứu các cực mặt trời của nó. Nó được đặt tên lại là Ulysses, bản dịch tiếng La-tinh của "Odysseus" theo yêu cầu của ESA nhằm tôn vinh không chỉ anh hùng thần thoại của Homer mà còn nhằm ám chỉ đến mô tả của Dante trong tác phẩm Inferno của Dante.[3] Ulysses ban đầu được định lịch phóng là vào tháng 5 năm 1986 trên tàu con thoi Challenger trong nhiệm vụ STS-61-F. Do việc không còn tàu Challenger nữa, việc phóng Ulysses bị hoãn lại cho tới 6 tháng 10 năm 1990 trên tàu Discovery (nhiệm vụ STS-41).
The Herzberg Institute of Astrophysics (HIA) of the National Research Council of Canada provided instrumentation and test equipment for the COsmic ray and Solar Particle INvestigation (COSPIN) on the Ulysses spacecraft. The COSPIN instrument consists of five sensors which measure energetic nucleons and electrons over a wide range of energies. This was the first participation by Canada in a deep-space interplanetary mission.
Wikimedia Commons có thêm hình ảnh và phương tiện truyền tải về Ulysses (tàu vũ trụ). |
Wikinews có tin tức ngoại ngữ liên quan đến bài: Ulysses spacecraft retires after 17 year mission |