Urszula Kozioł

Urszula Kozioł

Urszula Kozioł (sinh ngày 20 tháng 6 năm 1931 tại Rakówk)[1] là một nhà thơ người Ba Lan. Năm 2011, bà được trao Giải thưởng thơ Silesius.

Tiểu sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Urszula Kozioł theo học cấp ba ở Zamość[2] và tốt nghiệp Đại học Wrocław vào năm 1953.[3] Bà cho ra mắt tập thơ đầu tay Gumowe klocki ("Blocks of rubber") vào năm 1957, nhưng chính tập thơ thứ hai Wrytmie korzeni ("In the Rhythm of the Roots", 1963) mới được xem là bước đột phá lớn.[4] Bình luận về bài thơ "Recipe for the Meat Course" (1963) của Urszula Kozioł, dịch giả Karen Kovacik viết rằng: bài thơ này "vừa là một tác phẩm nghệ thuật vừa là một sự đáp trả mỉa mai tới những người tin rằng vị trí của một người phụ nữ chỉ là nơi xó bếp", và bài thơ "miêu tả việc nhà hoặc đời sống gia đình thông qua các mô típ bạo lực và ghẻ lạnh."[5]

Tiểu thuyết Postoje pamięci ("Stations of Memory", 1965) tập trung khắc họa Mirka, con gái của một giáo viên. Cô lớn lên ở một ngôi làng nhỏ trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khảo sát về văn học Ba Lan, Czesław Miłosz viết rằng tiểu thuyết này là "một trong những lời chứng chân thực nhất về ngôi làng".[6]

Urszula Kozioł trở thành biên tập viên của tạp chí Odra vào năm 1968.[4] Bà cũng sáng tác nhiều vở kịch sân khấu và kịch phát thanh cho người lớn và trẻ em.[3]

Tác phẩm tiêu biểu

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Gumowe klocki (Związek Literatów Polskich, Oddział we Wrocławiu, 1957)
  • W rytmie korzeni (Ossolineum, 1963)
  • Smuga i promień (Ludowa Spółdzielnia Wydawnicza, 1965)
  • Lista obecności (Ludowa Spółdzielnia Wydawnicza, 1967)
  • Poezje wybrane (Ludowa Spółdzielnia Wydawnicza, 1969)
  • W rytmie słońca (Wydawnictwo Literackie, 1974)
  • Wybór wierszy (Spółdzielnia Wydawnicza "Czytelnik", 1976)
  • Poezje wybrane (II) (Ludowa Spółdzielnia Wydawnicza, 1985; ISBN 83-205-3842-4)
  • Wybór wierszy (Spółdzielnia Wydawnicza "Czytelnik", 1986; ISBN 83-07-01527-8)
  • Żalnik (Wydawnictwo Literackie, 1989; ISBN 83-08-02464-X ISBN không hợp lệ, OCLC 830079123)
  • Dziesięć lat przed końcem wieku (nakładem autorki; maszynopis powielany, brak daty i miejsca wydania; ok. 1990)
  • Postoje słowa (Wydawnictwo Dolnośląskie, 1994)
  • Wielka pauza (Wydawnictwo Literackie, 1996; ISBN 83-08-02653-2)
  • W płynnym stanie (Wydawnictwo Literackie, 1998; ISBN 83-08-02885-3)
  • Wiersze niektóre (Bis, 1997, 1998; ISBN 83-87082-30-9)
  • Stany nieoczywistości (Państwowy Instytut Wydawniczy, 1999; ISBN 83-06-02752-3)
  • Supliki (Wydawnictwo Literackie, 2005; ISBN 83-08-03759-3)
  • Przelotem (Wydawnictwo Literackie, 2007; ISBN 978-83-08-04102-4)
  • Horrendum (Wydawnictwo Literackie, 2010; ISBN 978-83-08-04453-7)
  • Fuga (1955-2010) (Biuro Literackie, 2011; ISBN 978-83-62006-47-2)
  • Klangor (Wydawnictwo Literackie, 2014; ISBN 978-83-08-05321-8)
  • Ucieczki (Wydawnictwo Literackie, 2016; ISBN 978-83-08-06158-9)

Văn xuôi

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Postoje pamięci (Ludowa Spółdzielnia Wydawnicza, 1964, 1973, 1977; Atut-Wrocławskie Wydawnictwo Oświatowe 2004, ISBN 83-89247-98-4).
  • Ptaki dla myśli (Ludowa Spółdzielnia Wydawnicza 1971; wyd. 2 poprawione i rozszerzone: Wydawnictwo Literackie 1984, ISBN 83-08-01082-2)
  • Noli me tangere (Państwowy Instytut Wydawniczy 1984; ISBN 83-06-00814-6)

Tiểu luận

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Z poczekalni oraz Osobnego sny i przypowieści (Wydawnictwo Literackie, 1978)
  • Osobnego sny i przypowieści (Okis, 1997; Biblioteka Wrocławskiego Oddziału Stowarzyszenia Pisarzy Polskich; ISBN 83-87104-00-0)
  • Gonitwy (Prapremiera: Zespół Teatralny przy Wyższej Szkole Inżynieryjskiej, Rzeszów 1972)
  • Kobieta niezależna („Scena" 12/1976)
  • Biało i duszno (układ dramatyczny) („Scena" 10/1977)
  • Król malowany (na motywach baśni J. Ch. Andersena pt. Nowe szaty króla 1978; druk: Zjednoczone Przedsiębiorstwa Rozrywkowe, Ośrodek Teatru Otwartego „Kalambur", 1986)
  • Narada familijna („Teatr Polskiego Radia" 2/1978)
  • Przerwany wykład („Scena" 12/1978)
  • Weekend ("Opole" nr 1/1981 i nr 2/1981)
  • Spartolino, czyli jak Rzempoła ze szwagrem Pitołą stracha przydybali (Prapremiera: Wrocławski Ośrodek Teatru Otwartego „Kalambur" 1982)
  • Trzy Światy (Czytelnik, 1982; ISBN 83-07-00707-0)
  • Podwórkowcy (Prapremiera: Teatr Dramatyczny im. J. Szaniawskiego, Wałbrzych 1983; spektakl TV 1984)
  • Psujony ("Scena" 1/1985)
  • Magiczne imię (Wydawnictwo Literackie, 1985; ISBN 83-08-01194-2)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Wilson, Katharina M. (1991). An Encyclopedia of Continental Women Writers (bằng tiếng Anh). Taylor & Francis. ISBN 9780824085476.
  2. ^ Kozioł, Urszula (1989). Poems (Urszula Koziol) (bằng tiếng Anh). Host Publications, Inc. ISBN 9780924047022.
  3. ^ a b France, Anna Kay; Corso, Paula Jo (1993). International Women Playwrights: Voices of Identity and Transformation: Proceedings of the First International Women Playwrights Conference, October 18-23, 1988 (bằng tiếng Anh). Scarecrow Press. ISBN 9780810827820.
  4. ^ a b “Urszula Koziol (poet) - Poland - Poetry International”. www.poetryinternationalweb.net (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2017.
  5. ^ Kovacik, Karen. "Beyond the static of language, experience, and history: four Polish poets." The Southern Review, vol. 52, no. 1, 2016, p. 47+
  6. ^ Miłosz, Czesław (1983). The History of Polish Literature (bằng tiếng Anh). University of California Press. ISBN 9780520044777.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Bộ kỹ năng và cung mệnh của Wriothesley - Genshin Impact
Bộ kỹ năng và cung mệnh của Wriothesley - Genshin Impact
Chạy nước rút về phía trước 1 đoạn ngắn, tiến vào trạng thái [ Hình Phạt Lạnh Giá ] và tung liên hoàn đấm về phía trước.
Nhân vật Sae Chabashira - Classroom of the Elite
Nhân vật Sae Chabashira - Classroom of the Elite
Sae Chabashira (茶ちゃ柱ばしら 佐さ枝え, Chabashira Sae) là giáo viên môn lịch sử Nhật Bản và cũng chính là giáo viên chủ nhiệm của Lớp 1-D.
Làm thế nào để có lợi thế khi ra trường
Làm thế nào để có lợi thế khi ra trường
Chúng ta có thể có "điểm cộng" khi thi đại học nhưng tới khi ra trường những thứ ưu tiên như vậy lại không tự nhiên mà có.
[Review sách] Tàn ngày để lại: Còn lại gì sau một quá khứ huy hoàng đã mất
[Review sách] Tàn ngày để lại: Còn lại gì sau một quá khứ huy hoàng đã mất
Trong cuộc phỏng vấn với bà Sara Danius - thư ký thường trực Viện Hàn lâm Thụy điển, bà nói về giải thưởng Nobel Văn học dành cho Kazuo