Youri Djorkaeff

Youri Djorkaeff
Djorkaeff in 2011
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Youri Raffi Djorkaeff
Ngày sinh 9 tháng 3, 1968 (56 tuổi)
Nơi sinh Lyon, Pháp
Chiều cao 1,77 m
Vị trí Tiền vệ công
Tiền đạo
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
UGA Décines
Saint-Priest
US Meyzieu
AS Villeurbanne
0000–1985 Grenoble
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
1984–1989 Grenoble 82 (23)
1989–1990 Strasbourg 35 (25)
1990–1995 Monaco 155 (59)
1995–1996 Paris Saint-Germain 35 (13)
1996–1999 Inter Milan 87 (30)
1999–2002 Kaiserslautern 55 (14)
2002–2004 Bolton Wanderers 75 (20)
2004 Blackburn Rovers 3 (0)
2005–2006 New York Red Bulls[1] 45 (12)
Tổng cộng 584 (196)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
1993 Pháp B 2 (3)
1993–2002 Pháp 82 (28)
Thành tích huy chương
Men's football
Đại diện cho  Pháp
FIFA World Cup
Vô địch 1998 France
UEFA European Championship
Vô địch 2000 Belgium–Netherlands
FIFA Confederations Cup
Vô địch 2001 Korea/Japan
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia

Youri Raffi Djorkaeff (sinh ngày 9 tháng 3 năm 1968) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp, từng thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền đạo. Trong suốt sự nghiệp cấp câu lạc bộ, ông đã chơi cho các đội bóng tại Pháp, Ý, Đức, Anh, và Hoa Kỳ.

Ở cấp độ quốc tế, Djorkaeff ghi được 28 bàn thắng trong 82 lần ra sân cho đội tuyển quốc gia Pháp từ năm 1993 đến 2002. Ông cùng đội tuyển Pháp giành chức vô địch World Cup 1998, Euro 2000, và Cúp Liên đoàn các châu lục FIFA 2001. Ông cũng tham dự Euro 1996World Cup 2002. Djorkaeff là con trai của cựu cầu thủ Jean Djorkaeff. Sau khi giải nghệ vào năm 2006, Djorkaeff tập trung vào các dự án xã hội, dẫn đến việc thành lập Quỹ Youri Djorkaeff vào năm 2014. Hiện tại, ông giữ vị trí Giám đốc điều hành của FIFA Foundation, sau khi được bổ nhiệm vào tháng 9 năm 2019.

Thời thơ ấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Djorkaeff sinh ra tại Lyon, là con trai của Jean Djorkaeff, người gốc Ba LanKalmyk, và mẹ là Mary Ohanian, người gốc Armenia.

Sự nghiệp câu lạc bộ

[sửa | sửa mã nguồn]

Djorkaeff bắt đầu sự nghiệp vào năm 1984 với câu lạc bộ Grenoble của Pháp, sau đó chuyển đến RC Strasbourg năm 1989, AS Monaco năm 1990, và Paris Saint-Germain (PSG) năm 1995. Năm 1994, ông dẫn đầu danh sách ghi bàn tại giải Division 1 với 20 bàn thắng và giành Cúp C2 châu Âu cùng PSG vào năm 1996. Trong 190 trận đấu ở giải đấu hàng đầu của Pháp, ông ghi được 73 bàn thắng.

Năm 1996, Djorkaeff ký hợp đồng với Inter Milan của Ý. Trong mùa giải đầu tiên, ông ghi 17 bàn thắng trong 49 lần ra sân trên mọi đấu trường, bao gồm 14 bàn tại Serie A, giúp Inter đứng thứ ba tại giải và vào đến chung kết UEFA Cup, nơi họ thua Schalke trên loạt luân lưu dù Djorkaeff thực hiện thành công quả phạt đền của mình. Trong mùa giải này, ông còn ghi một bàn thắng đẹp mắt bằng pha xe đạp chổng ngược trong trận thắng 3–1 trước Roma ngày 5 tháng 1 năm 1997, được xem là một trong những bàn thắng đẹp nhất lịch sử câu lạc bộ.

Mùa giải thứ hai của ông tại Inter ít thành công hơn khi gặp khó khăn khi phối hợp với Ronaldo. Tuy nhiên, Inter đã giành UEFA Cup 1998 bằng chiến thắng 3–0 trước Lazio trong trận chung kết. Trong mùa giải thứ ba và cuối cùng, sau khi Inter ký hợp đồng với Roberto Baggio, Djorkaeff gặp khó khăn trong việc tìm chỗ đứng và phong độ giảm sút, dẫn đến việc Inter kết thúc ở vị trí thứ tám.

Năm 1999, ông chuyển sang Đức chơi cho 1. FC Kaiserslautern, giúp đội vào bán kết UEFA Cup năm 2001.

Năm 2002, Djorkaeff chuyển đến Bolton Wanderers (Anh), gây bất ngờ nhưng nhanh chóng chứng tỏ đẳng cấp, tạo thành “đội hình trong mơ” cùng Jay-Jay OkochaIván Campo. Ông là thành viên đội bóng vào đến chung kết Cúp Liên đoàn Anh 2003–04. Sau đó, ông chuyển đến Blackburn Rovers nhưng chỉ chơi ba trận trước khi rời câu lạc bộ.

Năm 2005, Djorkaeff gia nhập MetroStars của Major League Soccer (MLS), từ chối các lời đề nghị lương cao hơn từ các quốc gia khác. Ông trở thành cầu thủ người Pháp đầu tiên thi đấu tại MLS và kết thúc mùa giải với danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất của đội, ghi 10 bàn và có 7 pha kiến tạo trong giải đấu.

Djorkaeff chơi cho New York Red Bulls năm 2006

Djorkaeff đã thông báo ngay từ đầu rằng anh sẽ giải nghệ vào cuối mùa giải 2006 và thi đấu cho New York Red Bulls, câu lạc bộ đã được tái thương hiệu. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2006, Djorkaeff bị bắt gặp trong đám đông cổ động viên Pháp tại trận tứ kết FIFA World Cup giữa Pháp và Brazil, mặc dù trước đó ông đã nói với các quan chức của Red Bulls rằng rời câu lạc bộ để giải quyết “một vấn đề gia đình nghiêm trọng và bất ngờ tại Pháp.” Khi trở lại, ông giải thích lý do rời đi là để ở bên cạnh người mẹ đang ốm của mình và cho rằng việc xem trận đấu tại World Cup chỉ là tình cờ.

Djorkaeff chính thức giải nghệ vào ngày 29 tháng 10 năm 2006.


Sự nghiệp quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]

Djorkaeff đã ra sân 82 lần và ghi được 28 bàn thắng cho đội tuyển Pháp ở cấp độ đội tuyển quốc gia từ năm 1993 đến 2002. Ngoài hai giải đấu lớn mà ông giành được cùng đội tuyển – FIFA World Cup 1998UEFA Euro 2000 – Djorkaeff còn tham dự UEFA Euro 1996FIFA World Cup 2002. Trong trận chung kết FIFA World Cup 1998 tại Paris, ông đã kiến tạo bàn thắng thứ hai của Zinedine Zidane từ một pha đá phạt góc, góp phần vào chiến thắng 3–0 trước nhà đương kim vô địch Brazil.

Phong cách thi đấu

[sửa | sửa mã nguồn]

Djorkaeff có biệt danh “The Snake” (Con Rắn) nhờ khả năng vượt qua các hậu vệ và những cú sút cong đầy kỹ thuật. Là một nhà kiến tạo tài năng, Djorkaeff thường thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công, nhưng ông cũng có thể đảm nhiệm các vai trò sâu hơn ở tuyến giữa, chẳng hạn như tiền vệ trung tâm, hoặc chơi ở các vị trí tấn công như tiền đạo lùi hoặc thậm chí là tiền đạo cắm. Ở cấp độ đội tuyển quốc gia, ông thường được bố trí chơi dạt cánh trái.

Là một cầu thủ thanh lịch và có kỹ thuật vượt trội, Djorkaeff nổi bật với sự sáng tạo, khả năng rê bóng khéo léo và cảm giác bóng tuyệt vời. Ông còn được biết đến nhờ tầm nhìn chiến thuật, khả năng chuyền bóng, sự bình tĩnh, và đẳng cấp trên sân cỏ. Djorkaeff sở hữu những cú sút uy lực và chính xác, giúp ông vừa có thể ghi bàn vừa kiến tạo cơ hội cho đồng đội.

Ông nổi bật với khả năng chọn vị trí thông minh và di chuyển không bóng, dễ dàng thoát khỏi sự kèm cặp của đối thủ và tạo khoảng trống cho bản thân cũng như đội bóng. Djorkaeff còn gây ấn tượng bởi khả năng thực hiện các cú sút phạt và đá phạt đền chính xác bằng chân phải. Ngoài ra, ông cũng là một cầu thủ chăm chỉ với sự đóng góp tích cực trong phòng ngự khi đội không có bóng.

Djorkaeff thường đảm nhận vai trò liên kết giữa hàng thủ và hàng công hoặc chơi rộng trong vai trò tự do ở hàng tiền vệ. Phong cách chơi bóng của ông được mô tả như một “số 9 rưỡi” – kết hợp giữa vai trò của một tiền vệ và một tiền đạo. Tuy nhiên, từ góc độ chiến thuật, điều này đôi khi khiến các huấn luyện viên gặp khó khăn trong việc tìm ra vị trí tối ưu để phát huy hết khả năng của ông trên sân.

Mặc dù tài năng và thành công, Djorkaeff cũng từng bị giới truyền thông chỉ trích vì sự thiếu ổn định trong phong độ ở một số thời điểm.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Djorkaeff sống cùng vợ Sophie và ba người con: Sacha, Oan, và Angelica. Ông từng phát hành một đĩa đơn ca nhạc mang tên “Vivre dans Ta Lumière” (tạm dịch: “Sống trong ánh sáng của bạn”). Cha của ông, Jean Djorkaeff, và em trai, Micha Djorkaeff, cũng là những cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp.

Ngày 15 tháng 11 năm 2012, Djorkaeff tổ chức sự kiện từ thiện Phone-a-thon dành cho cộng đồng người Armenia tại châu Âu. Số tiền quyên góp từ sự kiện này được sử dụng để xây dựng các trung tâm cộng đồng tại các làng ở Nagorno Karabakh, phát triển nông nghiệp toàn diện tại khu vực Tavush của Armenia, và hỗ trợ khẩn cấp cho cộng đồng người Armenia tại Syria.

Trong thời gian thi đấu ở Anh, Djorkaeff đã mở một trường bóng đá tại Armenia. Tháng 4 năm 2007, sau khi giải nghệ, ông trở thành chủ tịch câu lạc bộ thời niên thiếu của mình tại Lyon - Union Generale Armenienne de Decines. Hiện tại, ông còn điều hành Quỹ Youri Djorkaeff, một tổ chức phi lợi nhuận chuyên cung cấp các chương trình bóng đá tại thành phố New York.

Tiền đạo quốc tế Ecuador, Djorkaeff Reasco, được đặt tên theo ông, cũng như cầu thủ người Hà Lan Tahith Chong.

Thống kê

[sửa | sửa mã nguồn]
Appearances and goals by club, season and competition[2][3][4]
Club Season League National Cup League Cup Continental Total
Division Apps Goals Apps Goals Apps Goals Apps Goals Apps Goals
Grenoble 1984–85 Division 2 3 0 0 0 3 0
1985–86 Division 2 6 0 0 0 6 0
1986–87 Division 2 26 4 0 0 26 4
1987–88 Division 2 19 8 1 0 20 8
1988–89 Division 2 25 11 3 1 28 12
1989–90 Division 2 3 0 0 0 3 0
Total 82 23 4 1 0 0 0 0 86 24
Strasbourg 1989–90 Division 2 28 21 2 0 30 21
1990–91 Division 2 7 4 0 0 7 4
Total 35 25 2 0 0 0 0 0 37 25
Monaco 1990–91 Division 1 20 5 6 1 26 6
1991–92 Division 1 35 9 5 0 7 1 47 10
1992–93 Division 1 32 11 2 2 4 1 38 14
1993–94 Division 1 35 20 2 0 11 3 48 23
1994–95 Division 1 33 14 1 0 3 0 37 14
Total 155 59 16 3 3 0 22 5 196 67
Paris Saint-Germain 1995–96 Division 1 35 13 2 2 1 0 8 4 46 19
Inter Milan 1996–97 Serie A 33 14 6 1 10 2 49 17
1997–98 Serie A 29 8 4 0 9 0 42 8
1998–99 Serie A 25 8 6 4 5 2 36 14
Total 87 30 16 5 0 0 24 4 127 39
Kaiserslautern 1999–2000 Bundesliga 25 11 1 0 0 0 5 2 31 13
2000–01 Bundesliga 26 3 2 0 0 0 7 2 35 5
2001–02 Bundesliga 4 0 0 0 4 0
Total 55 14 3 0 0 0 12 4 70 18
Bolton Wanderers 2001–02 Premier League 12 4 2 0 1 0 0 0 15 4
2002–03 Premier League 36 7 1 0 1 0 0 0 38 7
2003–04 Premier League 27 9 2 0 5 1 0 0 34 10
Total 75 20 5 0 7 1 - - 87 21
Blackburn Rovers 2004–05 Premier League 3 0 0 0 0 0 0 0 3 0[5]
MetroStars /
New York Red Bulls
2005 Major League
Soccer
24 10 2 1 26 11
2006 Major League
Soccer
21 2 1 0 22 2
Total 45 12 3 1 0 0 0 0 48 13
Career total 572 196 47 12 9 1 66 17 694 226

Quốc tế

[sửa | sửa mã nguồn]
Appearances and goals by national team and year
National team Year Apps Goals
Pháp[6] 1993 1 0
1994 5 3
1995 7 5
1996 12 5
1997 6 3
1998 18 3
1999 9 3
2000 11 4
2001 7 2
2002 6 0
Total 82 28

Danh hiệu

[sửa | sửa mã nguồn]

Monaco[7]

Paris Saint-Germain[7]

Inter Milan[7]

Bolton Wanderers

France[7]

Individual

Orders

  1. ^ The club was known as the MetroStars prior to 2006.
  2. ^ “Youri Djorkaeff”. footballdatabase.eu. Truy cập 27 tháng Mười năm 2012.
  3. ^ “Youri DJORKAEFF”. level-k.com. Truy cập 10 Tháng tư năm 2011.
  4. ^ “Youri Djorkaeff”. world-soccer.org. Bản gốc lưu trữ 20 Tháng hai năm 2005. Truy cập 10 Tháng tư năm 2011.
  5. ^ “Youri Djorkaeff”. www.statbunker.com. Bản gốc lưu trữ 7 Tháng sáu năm 2023. Truy cập 26 tháng Mười năm 2019.
  6. ^ “Youri Djorkaeff – International Matches”. RSSSF. Truy cập 10 Tháng tư năm 2011.
  7. ^ a b c d “Youri Djorkaeff” (bằng tiếng Pháp). www.lequipe.fr. Truy cập 26 tháng Mười năm 2019.
  8. ^ “Boro lift Carling Cup”. BBC Sport. 29 tháng 2 năm 2004. Truy cập 14 Tháng Một năm 2019.
  9. ^ “France - Topscorers”. RSSSF. Truy cập 9 tháng Bảy năm 2014.
  10. ^ “UEFA Euro 2008 Information” (PDF). UEFA. tr. 88. Truy cập 30 Tháng sáu năm 2008.
  11. ^ “All-Star Macca”. Sunday Mirror. The Free Library. 30 tháng 6 năm 1996. Truy cập 13 tháng Bảy năm 2012.
  12. ^ Лучшие ассистенты ЕВРО. Статистика и рекорды
  13. ^ Inter.it staff, inter(a t)inter.it (17 tháng 11 năm 2006). “F.C. Internazionale Milano”. Inter Milan. Bản gốc lưu trữ 19 Tháng tám năm 2012. Truy cập 14 tháng Mười năm 2017.
  14. ^ FIFA XI´s Matches - Full Info
  15. ^ “Décret du 24 juillet 1998 portant nomination à titre exceptionnel” [Decree of 24 July 1998 appointing on an exceptional basis]. Official Journal of the French Republic (bằng tiếng Pháp). 1998 (170). 25 tháng 7 năm 1998. PREX9801916D. Truy cập 2 Tháng Một năm 2021.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Shadow Of Death: Premium Games
Shadow Of Death: Premium Games
Trong tựa game này người chơi sẽ vào vai một người chiến binh quả cảm trên chuyến hành trình chiến đấu và cố gắng dẹp tan bè lũ hắc ám ra khỏi vương quốc
White Album ホワイトアルバム 2 Shiawase na Kioku 幸せな記憶
White Album ホワイトアルバム 2 Shiawase na Kioku 幸せな記憶
Đây là bài đầu tiên mà tôi tập, và cũng là bài mà tôi đã thuần thục
Kết thúc truyện Sơ Thần, là em cố ý quên anh
Kết thúc truyện Sơ Thần, là em cố ý quên anh
Đây là kết thúc trong truyện nhoa mọi người
Nhân vật Tira - Thủ Lĩnh hội sát thủ Ijaniya trong Overlord
Nhân vật Tira - Thủ Lĩnh hội sát thủ Ijaniya trong Overlord
Tira chị em sinh 3 của Tina Tia , khác vs 2 chị em bị rung động bởi người khác thì Tira luôn giữ vững lập trường và trung thành tuyệt đối đối vs tổ chức sát thủ của mình