Chrysiptera unimaculata

Chrysiptera unimaculata
Cá trưởng thành
Cá con
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Nhánh Ovalentaria
Họ (familia)Pomacentridae
Chi (genus)Chrysiptera
Loài (species)C. unimaculata
Danh pháp hai phần
Chrysiptera unimaculata
(Cuvier, 1830)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Glyphisodon unimaculatus Cuvier, 1830
  • Glyphidodon dispar Günther, 1862
  • Glyphidodon hemimelas Kner, 1868
  • Glyphisodon filholi Sauvage, 1879

Chrysiptera unimaculata là một loài cá biển thuộc chi Chrysiptera trong họ Cá thia. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1830.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh unimaculata được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Latinh, uni ("một") và maculata ("có đốm"), hàm ý đề cập đến đốm đen ở phía sau vây lưng của loài cá này.[2]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

C. unimaculata có phạm vi phân bố rộng khắp khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, từ Biển Đỏ trải dài đến FijiTonga, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ryukyu (Nhật Bản) và giới hạn phía nam đến rạn san hô Great Barrier (Úc).[1][3]

Tại Việt Nam, C. unimaculata được ghi nhận ở đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi),[4][5] Ninh Thuận,[6] cù lao Chàm (Quảng Nam),[7] cù lao Câu (Bình Thuận) và Nha Trang (Khánh Hòa)[8] cùng quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.

Loài này sống tập trung trên các rạn viền bờ và có nhiều sóng ở độ sâu đến ít nhất là 3 m.[3]

Chiều dài lớn nhất được ghi nhận ở C. unimaculata 10 cm. Cá trưởng thành nhìn chung có màu nâu, vây ngực có màu vàng. Có một đốm đen viền xanh óng ở phía sau vây lưng. Cá con màu vàng (sẫm nâu hơn ở lưng), lốm đốm các vệt xanh ánh kim với một sọc xanh trên mõm dọc theo lưng, và có thêm một đốm đen viền xanh ở giữa vây lưng.[9][10]

Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 13–14; Số gai ở vây hậu môn: 2; Số tia vây ở vây hậu môn: 12–14; Số tia vây ở vây ngực: 18–19; Số gai ở vây bụng: 1; Số tia vây ở vây bụng: 5; Số lược mang: 22–23; Số vảy đường bên: 16–18.[9]

Sinh thái học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của C. unimaculatatảođộng vật giáp xác nhỏ.[1] Cá đực có tập tính bảo vệ và chăm sóc trứng; trứng có độ dính và bám chặt vào nền tổ.[3]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Tighe, K. (2015). Chrysiptera unimaculata. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2015: e.T188425A1872835. doi:10.2305/IUCN.UK.2015-4.RLTS.T188425A1872835.en. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2022.
  2. ^ Scharpf, Christopher; Lazara, Kenneth J. (2021). “Series Ovalentaria (Incertae sedis): Family Pomacentridae”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2022.[liên kết hỏng]
  3. ^ a b c Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Chrysiptera unimaculata trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  4. ^ Nguyễn Văn Long (2016). “Hiện trạng và biến động quần xã cá rạn san hô ở khu bảo tồn biển Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tuyển tập Nghiên Cứu Biển. 22: 111–125.
  5. ^ Mai Xuân Đạt; Phan Thị Kim Hồng (2017). “Thành phần loài và phân bố của quần xã cá trong hệ sinh thái vùng triều khu bảo tồn biển Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 17 (4A): 177–187.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  6. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  7. ^ Nguyễn Văn Long; Mai Xuân Đạt (2020). “Đặc trưng nguồn lợi cá trong các hệ sinh thái ở khu dự trữ sinh quyển thế giới Cù Lao Chàm - Hội An” (PDF). Vietnam Journal of Marine Science and Technology. 20 (1): 105–120. doi:10.15625/1859-3097/13553. ISSN 1859-3097.
  8. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2002). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  9. ^ a b John E. Randall; Gerald R. Allen; Roger C. Steene (1998). The Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 267. ISBN 978-0824818951.
  10. ^ John E. Randall (1995). Coastal Fishes of Oman. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 263. ISBN 978-0824818081.