Từ định danh của cá mú rạn không được tác giả ghi chú lại ý nghĩa. Theo giải thích của nhà ngư học hiện đại, Christopher Scharpf, urodeta có lẽ được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: ourá (ουρά; "đuôi") và deta, không rõ từ nguyên, có thể là tính từ của dêlos (δῆλος; "rõ ràng"); nếu đúng là vậy thì hàm ý đề cập đến hai dải xiên trắng nổi bật trên vây đuôi loài cá này.[4]
Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá mú rạn là 28 cm.[15] Thân có màu nâu đỏ (sẫm hơn ở thân sau), thường có các vạch sọc mờ dược tách đôi ở nửa thân dưới. Đầu có nhiều chấm màu đỏ cam nằm sát nhau, đôi khi xuất hiện thêm các vệt mờ màu đỏ nhạt. Một cặp đốm ở trước môi dưới, thẳng hàng với cặp răng nanh trước. Vây lưng mềm và vây hậu môn lấm chấm đỏ cam. Vây bụng màu đỏ cam, thường có rìa màu xanh lam. Vây đuôi có 2 dải màu trắng xiên hội tụ về phía cuối vây; góc vây màu đỏ. Vây ngực màu nâu đỏ ở gốc, chuyển vàng trở ra rìa.[16]
Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 14–16; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 17–19; Số vảy đường bên: 54–68.[17]
Do kích thước nhỏ mà cá mú rạn chủ yếu được đánh bắt trong nghề cá thủ công, tuy nhiên chúng lại xuất hiện phổ biến trong ngành thương mại cá cảnh.[16]
^R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). “Perca urodeta”. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2022.
^ abcP. C. Heemstra, & J. E. Randall (1999). “Serranidae”(PDF). Trong Kent E. Carpenter; Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Roma: FAO. tr. 2483. ISBN92-5-104051-6.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)