Cá mú rạn

Cá mú rạn
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Perciformes
Họ (familia)Serranidae
Chi (genus)Cephalopholis
Loài (species)C. urodeta
Danh pháp hai phần
Cephalopholis urodeta
(Forster, 1801)
Danh pháp đồng nghĩa[2]
Danh sách
    • Perca urodeta Forster, 1801
    • Serranus urodelus Valenciennes, 1828
    • Serranus erythraeus Valenciennes, 1828
    • Epinephelus playfairi Bleeker, 1879
    • Serranus mars De Vis, 1884
    • Epinephelus playfairi Bleeker, 1879
    • Serranus mauritiiae Gudger, 1929
    • Anthias teatae Curtiss, 1938

Cá mú rạn,[3] danh phápCephalopholis urodeta, là một loài cá biển thuộc chi Cephalopholis trong họ Cá mú. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1801.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của cá mú rạn không được tác giả ghi chú lại ý nghĩa. Theo giải thích của nhà ngư học hiện đại, Christopher Scharpf, urodeta có lẽ được ghép bởi hai âm tiết trong tiếng Hy Lạp cổ đại: ourá (ουρά; "đuôi") và deta, không rõ từ nguyên, có thể là tính từ của dêlos (δῆλος; "rõ ràng"); nếu đúng là vậy thì hàm ý đề cập đến hai dải xiên trắng nổi bật trên vây đuôi loài cá này.[4]

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ đảo Giáng Sinh ở Đông Ấn Độ Dương, cá mú rạn được phân bố trải dài về phía đông đến đảo Wake, quần đảo Linequần đảo Pitcairn, ngược lên phía bắc đến quần đảo Ogasawaraquần đảo Ryukyu (Nhật Bản), giới hạn phía nam đến Úc, Tonga và đảo Rapa Iti.[1][5]

Việt Nam, cá mú rạn được ghi nhận tại Quảng Nam;[6] đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi);[7] vịnh Nha Trang (Khánh Hòa);[8] Ninh Thuận;[9] Bình Thuận;[10] quần đảo An Thới (Kiên Giang);[11] quần đảo Hoàng Saquần đảo Trường Sa.[12]

Hơn 1800 cá thể cá mú rạn đã được đưa từ quần đảo Marquises đến đảo Oahu (quần đảo Hawaii) vào năm 1958, tuy nhiên, chúng lại không thành lập một quần thể ở đây.[13][14]

Cá mú rạn ưa sống ở khu vực mặt trước rạn, đôi khi cũng được tìm thấy trong vùng đầm phá, độ sâu đến ít nhất là 60 m.[1]

Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở cá mú rạn là 28 cm.[15] Thân có màu nâu đỏ (sẫm hơn ở thân sau), thường có các vạch sọc mờ dược tách đôi ở nửa thân dưới. Đầu có nhiều chấm màu đỏ cam nằm sát nhau, đôi khi xuất hiện thêm các vệt mờ màu đỏ nhạt. Một cặp đốm ở trước môi dưới, thẳng hàng với cặp răng nanh trước. Vây lưng mềm và vây hậu môn lấm chấm đỏ cam. Vây bụng màu đỏ cam, thường có rìa màu xanh lam. Vây đuôi có 2 dải màu trắng xiên hội tụ về phía cuối vây; góc vây màu đỏ. Vây ngực màu nâu đỏ ở gốc, chuyển vàng trở ra rìa.[16]

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây ở vây lưng: 14–16; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 8–9; Số tia vây ở vây ngực: 17–19; Số vảy đường bên: 54–68.[17]

Sinh học

[sửa | sửa mã nguồn]

Thức ăn của cá mú rạn gồm những loài cá nhỏ hơn và động vật giáp xác.[16]

Thương mại

[sửa | sửa mã nguồn]

Do kích thước nhỏ mà cá mú rạn chủ yếu được đánh bắt trong nghề cá thủ công, tuy nhiên chúng lại xuất hiện phổ biến trong ngành thương mại cá cảnh.[16]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Cabanban, A. S. (2018). Cephalopholis urodeta. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2018: e.T132783A100458618. doi:10.2305/IUCN.UK.2018-2.RLTS.T132783A100458618.en. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2022.
  2. ^ Parenti, Paolo; Randall, John E. (2020). “An annotated checklist of the fishes of the family Serranidae of the world with description of two new related families of fishes”. FishTaxa. 15: 57. ISSN 2458-942X.
  3. ^ Nguyễn Nhật Thi (2008). Cá biển Việt Nam (PDF). Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 1 năm 2022.
  4. ^ Christopher Scharpf (2022). “Order Perciformes: Suborder Serranoidei (part 2)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 10 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2022.
  5. ^ R. Fricke; W. N. Eschmeyer; R. van der Laan biên tập (2023). Perca urodeta. Catalog of Fishes. Viện Hàn lâm Khoa học California. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2022.
  6. ^ Võ Văn Quang; Lê Thị Thu Thảo; Nguyễn Thị Tường Vi; Trần Thị Hồng Hoa; Nguyễn Phi Uy Vũ; Trần Công Thịnh (2016). “Đa dạng thành phần loài và hiện trạng khai thác họ cá Mú (Serranidae) vùng biển ven bờ Đà Nẵng và Quảng Nam” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 16 (4): 405–417. doi:10.15625/1859-3097/16/4/7506.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  7. ^ Nguyễn Văn Long (2016). “Hiện trạng và biến động quần xã cá rạn san hô ở khu bảo tồn biển Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (PDF). Tuyển tập Nghiên Cứu Biển. 22: 111–125.
  8. ^ Võ Văn Quang, Trần Thị Hồng Hoa, Lê Thị Thu Thảo, Trần Công Thịnh (2015). “Đa dạng thành phần loài và kích thước khai thác của một số loài thuộc họ Cá mú (Serranidae) vùng biển ven bờ Khánh Hòa” (PDF). Tạp chí Sinh học. 37 (1): 10–19. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2022.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  9. ^ Mai Xuân Đạt; Nguyễn Văn Long; Phan Thị Kim Hồng (2020). “Cá rạn san hô ở vùng biển ven bờ tỉnh Ninh Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ biển. 20 (4A): 125–139. doi:10.15625/1859-3097/15656. ISSN 1859-3097.
  10. ^ Võ Văn Quang (2018). “Đa dạng loài họ cá Mú (Serranidae) vùng biển từ Đà Nẵng đến Bình Thuận” (PDF). Tạp chí Khoa học và Công nghệ Biển. 18 (4A): 101–113.
  11. ^ Nguyễn Hữu Phụng; Nguyễn Văn Long (1996). “Một số kết quả nghiên cứu cá rạn san hô ở An Thới (Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang)” (PDF). Tuyển tập nghiên cứu biển. 7: 84–93.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết)
  12. ^ Nguyễn Hữu Phụng (2004). “Thành phần cá rạn san hô biển Việt Nam” (PDF). Tuyển tập Báo cáo Khoa học Hội nghị Khoa học "Biển Đông-2002": 275–308.
  13. ^ Mundy, Bruce C. (2005). Checklist of the fishes of the Hawaiian Archipelago (PDF). Bishop Museum Press. tr. 345.
  14. ^ Fuller, P. (2022). Cephalopholis urodeta (Forster in Bloch and Schneider, 1801)”. Nonindigenous Aquatic Species Database. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2022.
  15. ^ Ranier Froese và Daniel Pauly (chủ biên). Thông tin Cephalopholis urodeta trên FishBase. Phiên bản tháng 6 năm 2024.
  16. ^ a b c P. C. Heemstra, & J. E. Randall (1999). “Serranidae” (PDF). Trong Kent E. Carpenter; Volker H. Niem (biên tập). The living marine resources of the Western Central Pacific. Roma: FAO. tr. 2483. ISBN 92-5-104051-6.Quản lý CS1: sử dụng tham số tác giả (liên kết) Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách biên tập viên (liên kết)
  17. ^ Randall, Roger C.; Allen, Gerald R.; Steene (1997). Fishes of the Great Barrier Reef and Coral Sea. Nhà xuất bản Đại học Hawaii. tr. 104. ISBN 0-8248-1895-4.