Mặc dù hội chứng Evans dường như là một rối loạn điều hòa miễn dịch, nhưng sinh lý học chính xác vẫn chưa được biết rõ. Các kháng thể được nhắm mục tiêu vào các yếu tố quyết định kháng nguyên khác nhau trên các hồng cầu và tiểu cầu được cho là gây ra các giai đoạn bị cô lập của thiếu máu tán huyết và giảm tiểu cầu, tương ứng.[9]
Việc chẩn đoán được thực hiện khi xét nghiệm máu để xác nhận không chỉ thiếu máu tán huyết và ban xuất huyết giảm tiểu cầu miễn dịch, mà còn là một xét nghiệm kháng nguyên trực tiếp dương tính (DAT).[3]
Các kháng thể khác có thể xảy ra trực tiếp chống lại bạch cầu trung tính và tế bào lympho,[10] và "immunopancytopenia" đã được đề xuất là một thuật ngữ tốt hơn cho hội chứng này.[11]
Việc sử dụng rituximab ngoài nhãn (tên hiện đại Rituxan) đã tạo ra một số kết quả tốt trong các trường hợp cấp tính và chịu lửa,[14][20] mặc dù tái phát có thể xảy ra trong vòng một năm.[3]Thủ thuật cắt bỏ lách có hiệu quả trong một số trường hợp,[21] nhưng việc tái phát không phải là hiếm.[22]
Triển vọng duy nhất cho việc chữa trị vĩnh viễn là lựa chọn có nguy cơ cao của cấy ghép tế bào gốc tạo máu dị sinh (SCT).[23][24]
Hội chứng Evans rất hiếm, nghiêm trọng và tỷ lệ tử vong là 7%.[cần dẫn nguồn]
Nó đã được quan sát thấy rằng có nguy cơ phát triển các vấn đề tự miễn dịch khác và hypogammaglobulinemia,[25] với nghiên cứu gần đây cho thấy 58% trẻ em mắc hội chứng Evans có tế bào CD4-/CD8 có nguy cơ mắc bệnh hội chứng tăng bạch cầu tự miễn dịch.[26]
^ abcEvans RS, Takahashi K, Duane RT, Payne R, Liu C (1951). “Primary thrombocytopenic purpura and acquired hemolytic anemia; evidence for a common etiology”. AMA Archives of Internal Medicine. 87 (1): 48–65. doi:10.1001/archinte.1951.03810010058005. PMID14782741. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
^“Evans syndrome”. Genetic and Rare Diseases Information Center. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2018.
^Nuss R, Wang W (1987). “Intravenous gamma globulin for thrombocytopenia in children with Evans syndrome”. The American journal of pediatric hematology/oncology. 9 (2): 164–7. doi:10.1097/00043426-198722000-00012. PMID2438958.
^Mehta JB, Singhal SB, Mehta BC (1992). “Intravenous immunoglobulin therapy of idiopathic thrombocytopenia”. The Journal of the Association of Physicians of India. 40 (5): 340–2. PMID1483999.
^Liu H, Shao Z, Jing L (2001). “[The effectiveness of cyclosporin A in the treatment of autoimmune hemolytic anemia and Evans syndrome]”. Zhonghua Xue Ye Xue Za Zhi (bằng tiếng Trung). 22 (11): 581–3. PMID11855146.
^Yokoyama K; Kojima M; Komatsumoto S; và đồng nghiệp (1992). “[Thrombotic thrombocytopenic purpura achieving complete remission by slow infusion of vincristine]”. Rinsho Ketsueki (bằng tiếng Nhật). 33 (8): 1084–9. PMID1404865.
^Koike M; Ishiyama T; Saito K; và đồng nghiệp (1993). “[Effective danazol therapy for a patient with Evans syndrome]”. Rinsho Ketsueki (bằng tiếng Nhật). 34 (2): 143–6. PMID8492411.
^Scaradavou A, Bussel J (1995). “Evans syndrome. Results of a pilot study utilizing a multiagent treatment protocol”. J. Pediatr. Hematol. Oncol. 17 (4): 290–5. doi:10.1097/00043426-199511000-00003. PMID7583383.
^Hamidah A, Thambidorai CR, Jamal R (2005). “Prolonged remission after splenectomy for refractory Evans syndrome--a case report and literature review”. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health. 36 (3): 762–4. PMID16124452.
^Wang WC (1988). “Evans syndrome in childhood: pathophysiology, clinical course, and treatment”. The American journal of pediatric hematology/oncology. 10 (4): 330–8. doi:10.1097/00043426-198824000-00013. PMID3071168.