Strzemieszyce Wielkie

Strzemieszyce Wielkie
Strzemyzyce Wielkie, Thánh địa Thánh Tâm
Strzemyzyce Wielkie, Thánh địa Thánh Tâm
Huy hiệu của Strzemieszyce Wielkie
Huy hiệu
Strzemieszyce Wielkie trên bản đồ Ba Lan
Strzemieszyce Wielkie
Strzemieszyce Wielkie
Country Ba Lan
Voivodeship Silesian
City-county Dąbrowa Górnicza Dąbrowa Górnicza
đã thành lậpthế kỷ 11
Quyền phố1954–1975
Diện tích
 • Thành phố18,49 km2 (714 mi2)
Dân số
 • Vùng đô thị3,029,000 khu đô thị Katowice
Múi giờCET (UTC+1)
 • Mùa hè (DST)CEST (UTC+2)
Postal code41–300
Biển số xeSD

Strzemieszyce Wielkie (tiếng Hebrew: סצ'אמישיצה ויאלקה) - một huyện (dzielnica) của Dabrowa Gornicza (từ năm 1975) trong Ślaskie, Ba Lan. Nằm giữa các quận Reden và Strz Kẻzyce Małe, trên quốc lộ 94 giữa KatowiceOlkusz.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Dấu vết định cư của con người cổ đại có từ thời kỳ văn hóa Lusatian (khoảng năm 700 trước Công nguyên). Các cuộc khai quật được thực hiện vào năm 1996 là minh chứng cho thấy sự tồn tại của một khu định cư thời trung cổ vào thế kỷ thứ 11. Bản ghi chép đầu tiên về tên làng (theo tiếng Latin Strmyeschycze Major) xuất phát từ đầu thế kỷ 14. Ngôi làng thuộc về các giám mục Kraków và được quản lý như một phần của các điền trang Sławków cho đến năm 1790, khi những thứ này được quốc hữu hóa. Sau khi phân vùng lần thứ ba của Ba Lan, Strzemyzyce Wielkie trở thành một phần của tỉnh New Silesia của Phổ. Trường tiểu học đầu tiên được thành lập vào năm 1806. Từ năm 1807 đến 1813, nó thuộc Công tước Warsaw và giữa năm 1815 và 1914 dưới sự cai trị của Nga tại Quốc hội Ba Lan.

Nhà ga đường sắt Ivangorod (Dęblin) ở Strz Kẻzyce Wielkie (1917)

Năm 1848, một nhà ga đường sắt Warsaw-Vienna được khai trương, sau đó vào năm 1885 bởi một nhà ga của Đường sắt Ivangorod, nối Deblin (tiếng Nga: Ivangorod) và Dąbrowa. Giao điểm của hai tuyến đường sắt quan trọng này đã tạo ra sự phát triển công nghiệp của khu định cư. Giữa thập niên 1870 và 1930, mặc dù là các mỏ than nhỏ (vd "Jakub", "Jakub II", "Lilit", "Siurpryz", "Proreden") hoạt động tại đây.

Quang cảnh của Strzemyzyce Wielkie vào đầu thế kỷ 20

Năm 1883, một nhà máy ceresine ("Strem") và năm 1899, một nhà máy superphosphate được thành lập. Giám mục của Kielce Augustyn osiński (1867-1937) đã thành lập một giáo xứ Công giáo La Mã ở Strzemyzyce Wielkie vào tháng 2 năm 1911. Từ 1914 đến 1918, khu định cư thuộc về sự chiếm đóng của người Áo. Người Do Thái bắt đầu định cư ở Strzemyzyce Wielkie vào nửa sau của thế kỷ 19. Năm 1885 trong số 2962 cư dân 125 là người Do Thái (4.2%). Dân số Do Thái tăng lên ca. 20% trong giai đoạn giữa chiến tranh. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Strzemyzyce Wielkie (dưới tên tiếng Đức Groß Strz Kẻzyce) là trụ sở của một Amtsbezirk Strzemyzyce của Đức,[1] cũng thuộc một số cộng đồng khác (Strzemyzyce Małe, Strz Kẻzyce Folwark, Kazim

Hội trường làng, khoảng năm 1942

Quyền thị trấn trao cho nơi đây từ năm 1954 đến năm 1975, khi Strzemyzyce Wielkie trở thành một quận của Dąbrowa Górnicza.

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. F. Celiński, A. Czylok, A. Kubajak: Przewodnik przyrodniczy po Dąbrowie Górniczej, Krzeszowice 1996.
  2. Feliks Kiryk (Ed.): Dzieje Sławkowa, Kraków 2001, ISBN 83-87345-47-4
  3. Jan Kmiotek, Jan Przemsza-Zieliński: Echo dawnych Strziendzyc, Dąbrowa Górnicza 1998, ISBN 83-909050-2-7.
  4. Jan Kmiotek, Dariusz Kmiotek, Arkadiusz Rybak (biên soạn.): Echo dawnych Strz địchzyc, cz. IV, Dąbrowa Górnicza 2001, ISBN 83-909836-7-2.
  5. Arkadiusz Rybak: Z dziejów oświaty na terenie Strz Kẻzyc Małych 1820 - 2000, Dąbrowa Górnicza 2002, ISBN 83-909836-0-5.
  6. Kazimierz Rymut: Nazwy miast Arlingtonki, Ossolineum 1987, ISBN 83-04-02436-5.