Nga

Liên bang Nga
Tên bản ngữ
  • Российская Федерация (tiếng Nga)
    Rossiyskaya Federatsiya

Quốc ca
Gosudarstvenny gimn
Rossiyskoy Federatsii
"Государственный гимн
Российской Федерации"

(tiếng Việt: "Quốc ca Liên bang Nga")
Vị trí Liên bang Nga (xanh đậm) trên thế giới và các vùng đang chiếm đóng hoặc có tranh chấp (xanh nhạt)
Vị trí Liên bang Nga (xanh đậm) trên thế giới và các vùng đang chiếm đóng hoặc có tranh chấp (xanh nhạt)
Tổng quan
Thủ đô
và thành phố lớn nhất
Moskva (Москва)
55°45′B 37°37′Đ / 55,75°B 37,617°Đ / 55.750; 37.617
Ngôn ngữ chính thức
và ngôn ngữ quốc gia
Tiếng Nga
Ngôn ngữ quốc gia
được công nhận
Xem Ngôn ngữ tại Nga
Sắc tộc
(2010)[1]
Tôn giáo chính
Xem Tôn giáo ở Nga
Tên dân cưNgười Nga
Chính trị
Chính phủCộng hòa lập hiến liên bang Bán tổng thống chế[2] dưới chế độ độc tài[3][4] chuyên chế[5][6]
Vladimir Putin
Mikhail Mishustin
Valentina Matviyenko
Vyacheslav Volodin
Lập phápQuốc hội Liên bang
Hội đồng Liên bang
Duma Quốc gia
Lịch sử
Hình thành
• Giai đoạn Rurik[7]
862
• Rus' Kiev
882
1283
16 tháng 1 năm 1547
22 tháng 10 năm 1721
14 tháng 9 năm 1917
7 tháng 11 năm 1917[8]
• Liên Xô
30 tháng 12 năm 1922
12 tháng 6 năm 1990
8 tháng 12 năm 1991[a]
• Liên bang Nga
25 tháng 12 năm 1991[b]
12 tháng 12 năm 1993
• Liên bang với Belarus
2 tháng 4 năm 1996
Địa lý
Diện tích  
• Tổng cộng
17.098.246 km2[9] (chưa tính Krym)[c] (hạng 1)
6.601.670 mi2
• Mặt nước (%)
13[11] (bao gồm vùng đầm lầy)
Dân số 
• Ước lượng 2021
Tăng 145.904.090 (chưa tính Krym) (hạng 9)
8,4/km2 (hạng 225)
21,8/mi2
Kinh tế
GDP  (PPP)Ước lượng 2021
• Tổng số
4.328 nghìn tỷ USD[12] (hạng 6)
29,485 USD[12] (hạng 55)
GDP  (danh nghĩa)Ước lượng 2021
• Tổng số
1.710 nghìn tỷ USD[12] (hạng 11)
• Bình quân đầu người
11,654 USD[12] (hạng 64)
Đơn vị tiền tệRúp Nga () (RUB)
Thông tin khác
Gini? (2020)Giảm theo hướng tích cực 36[13]
trung bình
HDI? (2019)Tăng 0.824[14]
rất cao · hạng 52
Múi giờUTC+2 đến +12
Cách ghi ngày thángnn-tt-nnnn
Giao thông bênphải
Mã điện thoại+7
Mã ISO 3166RU
Tên miền Internet

Nga (Nga: Россия, chuyển tự. Rossiya IPA: [rɐˈsʲijə] ), tên đầy đủ là Liên bang Nga[15][16] (Nga: Российская Федерация, chuyển tự. Rossiyskaya Federatsiya IPA: [rɐˈsʲijskəjə fʲɪdʲɪˈraʦəjə] , viết tắt là RF) là một quốc gia cộng hòa liên bang nằm ở phía Bắc của lục địa Á - Âu, đây là quốc gia có diện tích lớn nhất thế giới.[17]

Nga là một nhà nước cộng hòa liên bang với 85 thực thể liên bang. Nga có biên giới giáp với Na Uy, Phần Lan, Estonia, Latvia, Litva, Ba Lan (cả hai đều qua tỉnh Kaliningrad), Belarus, Ukraina, Gruzia, Azerbaijan, Kazakhstan, Trung Quốc, Mông CổBắc Triều Tiên, có biên giới trên biển với Nhật Bản (qua biển Okhotsk), Thổ Nhĩ Kỳ (qua biển Đen), Hoa Kỳ (qua eo biển Bering) và Canada qua Bắc Băng Dương. Với diện tích 17,098,246 km² (6,601,670 mi²), Nga có diện tích lớn nhất thế giới, bao phủ gần 1/9 diện tích lục địa. Lãnh thổ Nga kéo dài qua phần phía bắc châu Á và 40% châu Âu, bao gồm 11 múi giờ và sở hữu nhiều loại địa hình. Nga có trữ lượng khoáng sản và năng lượng lớn nhất thế giới, được coi là một trong những siêu cường năng lượng.[18][19][20][21] Nga cũng có diện tích rừng lớn nhất thế giới và các hồ của Nga chứa xấp xỉ 25% lượng nước ngọt không đóng băng của thế giới.[22]

Nga đã thiết lập tầm ảnh hưởng trên khắp thế giới từ thời Đế quốc Nga. Dưới thời kỳ Liên bang Xô viết, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, Liên Xô được công nhận là một trong hai siêu cường thời đó cùng với Hoa Kỳ[23], đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong thắng lợi của Khối Đồng Minh trong Thế chiến II[24][25][26]. Liên bang Nga được thành lập kể từ sau sự sụp đổtan rã của Liên Xô cùng Khối phía Đông vào năm 1991 và được công nhận là sự kế tục pháp lý của nhà nước Xô viết.[27]

Ngày nay, Nga là một trong những nước sở hữu vũ khí hạt nhân được công nhận và đồng thời sở hữu kho vũ khí hủy diệt hàng loạt lớn nhất thế giới.[28] Nga là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, G20, APEC, SCO, EurAsEC và lãnh đạo của Cộng đồng các Quốc gia Độc lập.

Nguồn gốc tên gọi

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên tiếng Nga

[sửa | sửa mã nguồn]

Tên gọi Rossiya có nguồn gốc từ Rus, một quốc gia thời Trung Cổ có dân cư chủ yếu là người Đông Slav. Tuy nhiên, bản thân tên gọi này chỉ mới xuất hiện trong các sử liệu khá gần đây và cư dân của quốc gia này gọi đất nước của họ với cái tên "Русская Земля" (russkaya zemlya), có thể tạm dịch là "Xứ sở của người Rus'". Các sử gia hiện đại gọi quốc gia này là "Rus Kiev" để phân biệt nó với các quốc gia hậu thân. Bản thân danh xưng Rus có nguồn gốc từ tộc danh của người Rus, một phân nhóm của tộc Varangia (họ có lẽ chính là người Viking Swede),[29][30] những người có công thành lập quốc gia Rus (Русь).

Phiên bản Latinh cổ của cái tên Rus' là Ruthenia, chủ yếu được dùng để chỉ các vùng phía tây và phía nam của Rus' - những nơi gần kề với châu Âu Công giáo. Tên gọi hiện nay của quốc gia, Россия (Rossiya), bắt nguồn từ tên gọi tiếng Hy Lạp Trung đại của Rus Kiev, Ρωσσία Rossía— viết là Ρωσία (Rosía phát âm [roˈsia]) trong tiếng Hy Lạp hiện đại.[31]

Tên tiếng Việt

[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện tại, quốc hiệu thông dụng của nước Nga trong tiếng Trung là "Nga La Tư" (俄羅斯, éluósì). Về nguồn gốc của từ "Nga La Tư", có thuyết cho rằng: vào trước thời nhà Nguyên, khi người Mông Cổ tiếp xúc với quốc gia này, do tiếng Mông Cổ không có phụ âm "r" đứng đầu, để tiện cho việc phát âm nên đã lặp lại nguyên âm trong âm thứ nhất của từ. Россия (Rossiya) vì thế biến đổi thành оРоссия (oRossiya), đến thời Nguyên thì người Mông Cổ sử dụng dịch danh Hán tự là "Oát La Tư" (斡羅思, wòluósì), phiên âm từ "o-Ro-ssi" và bỏ "ya". Những năm đầu thời nhà Thanh, trong nhiều văn hiến có sử dụng tên gọi "La Sát" (羅剎), song khi xưng hô giữa quốc gia với nhau thì phần nhiều dịch là Ngạc La Tư (鄂羅斯) hoặc Nga La Tư (俄羅斯). Vào những năm Càn Long thời Thanh, khi soạn "Tứ khố toàn thư" thì chính thức thay đổi thành Nga La Tư (俄羅斯, éluósì).[32] Do vậy theo phân tích trên thì chữ "Nga" lại không phiên âm cho âm tiết nào trong từ "Rossiya" cả.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Lịch sử của nước Nga bắt đầu từ lịch sử Đông Slav. Nhà nước Đông Slav đầu tiên, nước Rus' Kiev, đã chấp nhận việc du nhập Ki-tô giáo từ Đế quốc Đông La Mã vào năm 988 [33] khởi đầu sự tổng hòa các nền văn hoá Đông La Mã và Slav lập ra văn hoá Nga trong một nghìn năm tiếp theo.[34] Nước Rus' Kiev nhanh chóng tan rã không còn là một Nhà nước nữa, cuối cùng chịu đầu hàng quân xâm lược Mông Cổ trong những năm 1230. Trong thời gian này, một số lãnh đạo địa phương, đặc biệt là xứ Novgorod và xứ Pskov, đã chiến đấu để thừa kế di sản văn hoá và chính trị của nước Rus' Kiev.

Sau thế kỷ XIII, Moskva dần trở thành trung tâm văn hoá. Tới thế kỷ XVIII, Đại công quốc Moskva đã trở thành Đế quốc Nga rộng lớn, trải dài từ Ba Lan về phía đông tới Thái Bình Dương. Sự mở rộng về phía tây càng khiến nước Nga nhận thức được sự khác biệt của họ với đa phần còn lại của châu Âu và phá vỡ sự cô lập từng xảy ra ở những giai đoạn đầu mở rộng. Thời này có Nga hoàng Pyotr Đại Đế xóa bỏ một nước Nga lạc hậu, nửa Á Đông, tiến hành sự nghiệp lớn lao đổi mới đất nước.[35][36] Các vị Nữ hoàng Anna, Elizaveta PetrovnaEkaterina II đều lên ngôi với những cuộc đảo chính do Ngự Lâm quân hỗ trợ.[37] Với chính sách bành trướng, phát triển thực lực của đất nước, triều đình Nga hoàng đã phá bỏ mối đe dọa từng có từ Vương quốc Thụy ĐiểnĐế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman. Các triều đại nối tiếp nhau trong thế kỷ XIX đã đối phó với những áp lực đó bằng sự kết hợp giữa các cuộc cải cách miễn cưỡng và trấn áp. Chế độ nông nô Nga đã bị bãi bỏ năm 1861, nhưng sự huỷ bỏ này thực sự chỉ gây thêm phiền toái cho người nông dân và càng khiến áp lực cách mạng tăng cao. Trong khoảng thời gian từ khi chế độ nông nô bị huỷ bỏ tới khi bắt đầu Chiến tranh thế giới lần thứ nhất năm 1914, các cuộc cải cách Stolypin, hiến pháp 1906Duma quốc gia đã mang lại những thay đổi đáng kể cho nền kinh tế và chính trị Nga,[38] nhưng các hoàng đế Nga vẫn không muốn rời bỏ quyền lực tuyệt đối, hay chia sẻ quyền lực.[39]

Cách mạng Nga năm 1917 được khởi phát từ một sự tổng hợp các yếu tố tan rã kinh tế, tình trạng kiệt quệ do chiến tranh, và sự bất bình với hệ thống chính phủ chuyên quyền, và lần đầu tiên một liên minh giữa những người tự do và xã hội chủ nghĩa ôn hoà lên nắm quyền lực, nhưng các chính sách sai lầm của họ đã khiến những người Cộng sản Bolshevik chiếm quyền lực vào ngày 25 tháng 10 (lịch Julius, tức ngày 7 tháng 11 theo lịch Gregory). Từ năm 1922 tới năm 1991, lịch sử Nga chủ yếu là Lịch sử Liên Xô, một nhà nước hoàn toàn dựa trên ý thức hệ gồm các quốc gia láng giềng của Đế quốc Nga trước Hòa ước Brest-Litovsk. Tuy nhiên, việc tiếp cận cách thức xây dựng chủ nghĩa xã hội khác nhau trong từng thời điểm trong lịch sử Liên Xô, từ nền kinh tế pha trộn và xã hội và văn hoá đa dạng hồi thập niên 1920 tới nền kinh tế chỉ huy và trấn áp thời Stalin tới "thời kỳ trì trệ" thập niên 1980. Từ những năm đầu tiên, chính phủ Liên Xô đã dựa trên nền tảng độc đảng của những người Cộng sản, như những người Bolshevik tự gọi mình, từ tháng 3 năm 1918.[40] Tuy nhiên, tới cuối thập niên 1980, khi sự yếu kém của các cơ cấu kinh tế và chính trị đã trở nên gay gắt, các lãnh đạo cộng sản đã tiến hành các cải cách lớn, dẫn tới sự sụp đổ của Liên bang Xô viết.[41]

Lịch sử Liên bang Nga khá ngắn, chỉ bắt đầu từ sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991. Từ khi giành lại độc lập, nước Nga đã được công nhận là nhà nước thừa kế chính thức của Liên Xô trên bình diện quốc tế.[42] Tuy nhiên, nước Nga đã mất vị trí siêu cường của mình và đang phải đối mặt với những thách thức trong các nỗ lực thiết lập một hệ thống kinh tế và chính trị hậu Xô viết. Loại bỏ nền kinh tế kế hoạch tập trung và quyền sở hữu nhà nước thời kỳ Xô viết, nước Nga đang nỗ lực xây dựng một nền kinh tế mang các yếu tố của thị trường tư bản, với những hậu quả nhiều khi khá nặng nề. Thậm chí ngày nay nước Nga vẫn mang nhiều nét đặc trưng văn hoá và xã hội thời kỳ Sa Hoàng và Liên Xô.

Nước Rus' Kiev

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ gần đúng về các nền văn hóa của Nga phần châu Âu khi người Varangia đến
Quân lính Nga hành quân trong mùa Đông. Tranh vẽ của Sergei Vasilyevich Ivanov

Phần lớn diện tích đất đai của nước Nga ngày nay là lãnh thổ của các bộ lạc khác nhau như người Goth, HunAvar gốc Thổ trong khoảng thời gian từ thế kỷ III tới thế kỷ VI. Bộ lạc người Scythia gốc Iran sinh sống ở các thảo nguyên miền nam, và bộ lạc người Ca dắc (Khazar) gốc Tuốc (Turk) đã cai trị phần phía tây của vùng đất này cho đến thế kỷ VIII. Sau đó họ đã bị bộ lạc gốc Scandinavi là người Varangia thay thế, bộ lạc này đã thiết lập thủ đô tại thành phố của người Slav Novgorod và dần dần hòa trộn với người Slav. Người Slav tạo thành nhóm dân cư chính từ thế kỷ VIII trở đi và đồng hóa một cách chậm chạp cả những người gốc Scandinavi cũng như các bộ lạc bản địa gốc Phần Lan-Ugric, chẳng hạn như người Merya, MuromiaMeshchera.

Chính quyền của người Varangia tồn tại trong vài thế kỷ, trong thời gian đó họ liên kết với Chính thống giáo và chuyển thủ đô về Kiev năm 1169. Trong kỷ nguyên này thuật ngữ "Rhos", hoặc "Russ" lần đầu tiên được sử dụng để chỉ người Varangia và người Slav sinh sống trong khu vực. Từ thế kỷ X đến thế kỷ XI quốc gia Rus' Kiev (Киевская Русь) đã trở thành lớn nhất ở châu Âu và rất thịnh vượng nhờ các hoạt động thương mại tích cực với cả châu Âu và châu Á.

Trong thế kỷ XIII khu vực này trở nên suy yếu vì những tranh chấp nội bộ và bị tàn phá bởi những kẻ xâm lược phương đông là Kim trướng của người Mông Cổ và các bộ lạc Hồi giáo gốc Turk, là những kẻ đã cướp bóc các công quốc Nga trên ba thế kỷ. Còn được biết đến như là người Tatar, họ đã cai trị vùng miền nam và miền trung Nga ngày nay, trong khi các vùng miền tây bị sáp nhập vào Đại công quốc LietuvaBa Lan. Sự chia cắt về chính trị của Rus Kiev đã tách người Nga ở phía bắc ra khỏi người Belarusngười Ukraina ở phía tây.

Quân tuần tra Muscovie Nga ở biên giới phía nam

Phần phía bắc của Nga cùng với Novgorod vẫn giữ được sự tự trị ở một mức độ nhất định trong thời gian cai trị của người Mông Cổ. Tuy thế Nga cũng đã phải chiến đấu chống lại đội quân thập tự chinh của người Đức khi người Đức có ý đồ chiếm khu vực này làm thuộc địa.

Giống như khu vực BalkanTiểu Á sự cai trị kéo dài của những người du mục đã làm chậm sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước này. Sự chuyên quyền kiểu châu Á đã ảnh hưởng tiêu cực tới thể chế dân chủ của đất nước cũng như tới văn hóa và kinh tế.

Bất chấp điều đó, không giống như lãnh đạo tinh thần của mình là Đế chế Byzantine, Nga đã không suy tàn và tổ chức những cuộc nổi dậy để giành độc lập, cuối cùng đã khuất phục được các kẻ thù của mình và khôi phục, mở mang lãnh thổ. Sau thất thủ của Constantinople năm 1453, Nga là quốc gia Chính thống giáo duy nhất còn thực sự hoạt động nhiều hay ít ở phần biên giới phía đông châu Âu, điều này cho phép Nga có quyền nhận mình là quốc gia kế tục hợp pháp của Đế chế Byzantine.

Đế quốc Nga

[sửa | sửa mã nguồn]
Quân Nga tấn công vùng Siberia cuối thế kỷ XVI dưới sự chỉ huy của Yermak
Chiến hạm Nhật đánh chìm Hạm đội Nga trong Hải chiến cảng Lữ Thuận 1904

Trong khi về danh nghĩa vẫn nằm dưới sự cai trị của người Mông Cổ thì đại công quốc Moskva đã bắt đầu xác nhận ảnh hưởng của mình và cuối cùng đã thoát khỏi sự kiểm soát của những kẻ xâm lăng vào cuối thế kỷ XIV. Ivan Hung đế, vị vua đầu tiên xưng tước vị Sa hoàng, đã kết thúc quá trình này và liên kết các khu vực xung quanh dưới ảnh hưởng của Moskva và tiến quân tới những vùng đất rộng lớn ở Siberia mà lịch sử gọi là Nga chinh phục Siberia (1580–1778). Đế chế Nga ra đời.

Sự kiểm soát của Moskva đối với quốc gia mới ra đời còn tiếp tục dưới triều đại Romanov kế tiếp, bắt đầu với Sa hoàng Mikhail Romanov năm 1613. Pyotr Đại đế, Sa hoàng từ 1689 tới 1725, đã thành công trong việc đem các tư tưởng và văn hóa từ Tây Âu vào Nga, khi đó còn chịu ảnh hưởng lớn của nền văn hóa du mục nguyên thủy. Những cải cách của Pyotr cùng với chiến thắng của Nga đánh bại Thụy Điển trong Đại chiến Bắc Âu chống quân Thụy Điển đã đưa Nga vươn lên thành một trong những cường quốc châu Âu khi đó. Các nữ hoàng Elizaveta (Елизаве́та; cai trị 1740-1762), Ekaterina Đại đế (Екатерина II Алексеевна; 1762-1796) đã tiếp bước gầy dựng Đế quốc Nga, bảo trợ khoa học, nghệ thuật, chinh phục nhiều vùng đất lớn của Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ và đánh bại Phổ trong chiến tranh Bảy năm.

Tuy nhiên, sự nổi loạn của nông nô bị áp bức và sự cấm đoán tầng lớp trí thức đang phát triển và các giai cấp gần gũi với giai cấp này, cộng thêm gánh nặng thất bại (trận Hải chiến Đối Mã) trước người Nhật trong chiến tranh Nga-Nhật năm 1905 đã dẫn đến cuộc Cách mạng 1905. Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, vai trò của Sa hoàng Nikolai II (Николай Александрович Романов) và triều đại của ông là không vững chắc. Những thất bại nặng nề của quân đội Nga trong Chiến tranh thế giới thứ nhất đã dẫn đến sự nổi dậy rộng khắp trong các thành phố chính của Đế chế Nga và dẫn tới sự sụp đổ của nhà Romanov năm 1917, đó là Cách mạng tháng Hai.

Vào giai đoạn cuối của Cách mạng tháng Mười (1917), những người theo đường lối Bolshevik của Đảng Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Vladimir Ilyich Lenin đã giành được chính quyền thành lập Liên Xô. Sự lãnh đạo của Iosif Vissarionovich Stalin đã thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa một đất nước chủ yếu là nông nghiệp và tập thể hóa nền nông nghiệp đưa đất nước phát triển vượt bậc. Điều này cũng làm tăng cường vị thế của Liên Xô.

Nga Xô viết

[sửa | sửa mã nguồn]
Vladimir Lenin, lãnh đạo những người Bolshevik và là người sáng lập Liên xô.

Sau Cách mạng tháng 10, một cuộc nội chiến bùng phát giữa phong trào Cách mạng Bolsheviks và quân Bạch vệ phản cách mạng, tuy Hòa ước Brest-Litovsk đã chấm dứt những thù địch với Liên minh Trung tâm trong Thế chiến I. Nga đã mất các lãnh thổ tại Ukraina, Ba Lan, Baltic, Phần Lan khi ký kết hiệp ước. Các cường quốc Đồng Minh can thiệp quân sự hỗ trợ cho các lực lượng chống đảng Bolshevik. Tới cuối cuộc Nội chiến Nga, nền kinh tế và cơ sở hạ tầng của Nga đã bị phá huỷ nghiêm trọng, gây ra nạn đói năm 1921 đã làm thiệt mạng từ 1 tới 5 triệu người.[43] Nhờ sự ủng hộ của người dân và lý tưởng chiến đấu cao, lực lượng Xô viết cuối cùng đã đánh bại Bạch Vệ, đánh đuổi được quân của các ngoại quốc can thiệp và thống nhất đất nước.

Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga cùng với các nước cộng hoà thuộc Liên xô khác dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã thành lập Liên bang Xô viết ngày 30 tháng 12 năm 1922. Trong số 15 nước cộng hoà thành lập Liên Xô, Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga, nước cộng hoà lớn nhất về diện tích và chiếm tới hơn một nửa dân số Nga, chiếm đa số dân cư tại Liên bang Xô viết trong toàn bộ lịch sử 89 năm của nó. Vì thế, Liên bang Xô viết thường được gọi, dù một cách không chính thức, là "Nga" và người dân của nó là "người Nga".

Sau khi Lenin qua đời năm 1924, một lãnh đạo Bolshevik khác là Joseph Stalin lên củng cố quyền lực. Ông bãi bỏ các chính sách kinh tế thị trường của Lenin và đưa ra một nền kinh tế chỉ huy, nhanh chóng công nghiệp hoá đất nước vẫn còn hầu hết là nông nghiệp, tập thể hoá nền nông nghiệp. Những động thái này đã biến Liên Xô từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu trở thành một cường quốc công nghiệp thứ 2 thế giới chỉ trong một thời gian rất ngắn, chưa đầy 20 năm. Tuy nhiên, sự chuyển tiếp này cũng đi kèm với hậu quả, hàng triệu người đã phải di cư tới những vùng xa xôi (xem Phi kulak hoá, Di chuyển dân cư tại Liên xô).

Ngày 22 tháng 6 năm 1941, Phát xít Đức xâm lược Liên Xô với lực lượng lớn và mạnh nhất trong lịch sử nhân loại,[44] mở ra mặt trận đẫm máu của Thế chiến II. Dù quân đội Đức có những thắng lợi lớn ở thời điểm ban đầu, cuộc tấn công của họ đã bị chặn lại trong Trận Moskva; sau đó người Đức đã phải chịu nhiều thất bại quan trọng khác, đầu tiên tại Trận Stalingrad mùa đông năm 1942–1943,[45] sau đó tại Trận chiến Vòng cung Kursk vào mùa hè năm 1943. Một nơi khác đánh dấu thất bại của Phát xít Đức trước chủ nghĩa anh hùng Liên Xô là thành phố Leningrad, nơi bị các lực lượng Đức phong tỏa hoàn toàn trên đất liền giai đoạn 1941–44 và phải chịu nạn đói với hàng triệu người chết, nhưng thành phố đã không chịu đầu hàng. Dưới sự lãnh đạo của các vị tướng xuất chúng như Georgy ZhukovKonstantin Rokossovsky, các lực lượng Liên Xô đã chuyển sang giai đoạn phản công, tiến qua Đông Âu năm 1944–45 và chiếm Berlin tháng 5 năm 1945. Sau đó, quân đội Liên xô đẩy lùi Nhật Bản khỏi vùng Mãn Châu của Trung QuốcBắc Triều Tiên, một đóng góp quan trọng vào thắng lợi của Đồng Minh trước Nhật Bản.

Lá cờ chiến thắng trên nóc tòa nhà Reichstag (Quốc hội Đức) sau Trận Berlin tháng 5 năm 1945.

Giai đoạn 1941–1945 của Thế chiến II được gọi là Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại tại Nga. Trong cuộc xung đột này, vốn gồm nhiều chiến dịch quân sự có thiệt hại nhân mạng lớn nhất trong lịch sử loài người, con số thiệt mạng của Liên Xô là 8,7 triệu binh sĩ và 15,9 triệu thường dân[46] chiếm khoảng một phần ba tổng số thương vong trong Thế chiến II. Kinh tế và hạ tầng Liên Xô bị phá hủy nặng nề[47] nhưng Liên bang Xô viết đã nổi lên trở thành một siêu cường được công nhận. Hồng quân chiếm Đông Âu sau cuộc chiến, gồm cả nửa phía đông của nước Đức; Stalin đã thiết lập các chính phủ xã hội chủ nghĩa tại các quốc gia vệ tinh này. Trở thành cường quốc hạt nhân số hai thế giới, Liên Xô đã thành lập Khối hiệp ước Warszawa đồng minh và bước vào một cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng trên thế giới với Hoa Kỳ, được gọi là cuộc Chiến tranh Lạnh. Liên Xô đã đưa Chủ nghĩa Cộng sản của mình tới những đồng minh mới giành được độc lập, Trung Quốc cùng với Bắc Triều Tiên, trong khi cũng giúp các nước này thực hiện công nghiệp hoáphát triển. Sau đó các ý tưởng của Chủ nghĩa Cộng sản cũng đã giành được chỗ đứng tại Cuba và nhiều quốc gia khác.

Sau khi Stalin qua đời, một lãnh đạo mới Nikita Khrushchev lên án sự sùng bái cá nhân với Stalin và khởi động quá trình phi Stalin hoá. Các Gulag bị bãi bỏ và đại đa số tù nhân được thả ra;[48] việc loại bỏ các chính sách của Stalin sau này được gọi là thời kỳ tan băng Khruschev. Liên bang Xô viết phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của thế giới, Sputnik 1, và nhà du hành vũ trụ Nga Yuri Gagarin trở thành người đầu tiên bay quanh Trái Đất trên tàu vũ trụ có người điều khiển đầu tiên, Vostok 1. Những căng thẳng với Hoa Kỳ lên cao khi hai đối thủ xung đột về việc Mỹ triển khai các tên lửa Jupiter tại Thổ Nhĩ Kỳ và Liên xô triển khai tên lửa tại Cuba.

Sau khi Khrushchev bị buộc phải từ chức, một giai đoạn cầm quyền tập thể ngắn khác kế tiếp, cho tới khi Leonid Brezhnev lên nắm quyền lãnh đạo chính trị Liên Xô vào đầu thập niên 1970. Thời kỳ cầm quyền của Brezhnev chứng kiến giai đoạn trì trệ kinh tế, bởi những nỗ lực cải cách của Thủ tướng Alexey Kosygin, đã bị dừng lại. Những cuộc cải cách này có mục tiêu chuyển trọng tâm của nền kinh tế Liên Xô từ công nghiệp nặngsản xuất quân sự sang công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng tiêu dùng, tuy nhiên điều này cũng có nghĩa là việc phi tập trung hoá nền kinh tế và áp dụng các yếu tố kiểu tư bản, và giới lãnh đạo trung thành với Chủ nghĩa cộng sản sẽ không bao giờ chấp nhận nó. Từ năm 1979 cuộc chiến tranh Xô viết tại Afghanistan đã làm hao mòn các nguồn tài nguyên kinh tế mà không mang lại một kết quả có ý nghĩa chính trị nào. Cuối cùng các lực lượng Liên Xô đã rút khỏi Afghanistan năm 1989 vì sự phản đối quốc tế và thiếu sự ủng hộ từ trong nước. Căng thẳng giữa Liên Xô và Mỹ lại gia tăng vào đầu thập niên 1980, được tăng cường bởi tình cảm chống Liên Xô tại Mỹ, đề xuất SDI, và vụ bắn hạ chuyến bay 007 của Korean Air Lines năm 1983 của Liên Xô.

Trước năm 1991, kinh tế Liên Xô luôn là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới,[49] nhưng trong những năm cuối cùng nó đã bị ảnh hưởng bởi sự thiếu hụt hàng hoá, những khoản thâm hụt tài chính và việc tăng nguồn cung tiền đã dẫn tới lạm phát.[50] Từ năm 1985 trở về sau, lãnh đạo cuối cùng của Liên Xô Mikhail Gorbachev đã đưa ra các chính sách glasnost (mở cửa) và perestroika (tái cơ cấu) trong một nỗ lực nhằm hiện đại hoá đất nước và biến nó thành dân chủ hơn. Tuy nhiên, việc này đã dẫn tới sự trỗi dậy của các phong trào ly khaisự giải tán Liên Xô. Tháng 8 năm 1991, một cuộc đảo chính quân sự bất thành, chống lại Gorbachev nhằm mục tiêu duy trì Liên Xô, nhưng cuộc đảo chính thất bại và đã dẫn tới sự tan rã của Liên Xô. Tại Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga, Boris Yeltsin lên nắm quyền lực và tuyên bố chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa. Liên Xô tan rã thành 15 nước cộng hoà độc lậpchính thức giải tán tháng 12 năm 1991. Boris Yeltsin được bầu làm Tổng thống Nga tháng 6 năm 1991, cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp đầu tiên trong lịch sử Nga.

Liên bang Nga (1991 tới nay)

[sửa | sửa mã nguồn]
Thiết giáp BTR-80 của Quân đội Nga năm 1996

Vào giai đoạn giữa và cuối thập niên 1980, tổng bí thư Mikhail Sergeyevich Gorbachov đề ra glasnost (гласность tức "công khai hóa, mở cửa") và perestroika (Перестройка tức "cải tổ") trong cố gắng để hiện đại hóa chủ nghĩa cộng sản. Những sáng kiến của ông đã vô tình giải phóng các lực lượng mà vào tháng 12 năm 1991 đã chia tách Liên Xô thành 15 nước cộng hòa độc lập trong đó Nga là lớn nhất. Kể từ đó, Nga đã cố gắng để xây dựng một hệ thống chính trị đa đảngkinh tế thị trường theo mô hình tư bản chủ nghĩa nhằm thay thế cho các sự kiểm soát chặt chẽ về xã hội, chính trị, kinh tế trong thời kỳ Liên Xô. Tuy nhiên, quá trình này không diễn ra êm ả. Kinh tế Nga suy sụp đáng kể trong 10 năm cầm quyền của Tổng thống Boris Yeltsin. Kể từ khi Chechnya tuyên bố độc lập vào đầu những năm thập niên 1990, những cuộc chiến tranh du kích (Chiến tranh Chechnya lần 1, Chiến tranh Chechnya lần 2) đã diễn ra giữa các nhóm người Chechen khác nhau với quân đội Nga. Một số các nhóm này đã trở thành những kẻ Hồi giáo cực đoan theo tiến trình của cuộc chiến. Ước tính có trên 200.000 người đã chết trong các cuộc xung đột này. Các cuộc xung đột nhỏ hơn diễn ra ở Bắc OssetiaIngushetia.

Sau thời gian làm tổng thống của Boris Yeltsin trong những năm thập niên 1990, Vladimir Vladimirovich Putin đã được bầu làm tổng thống năm 1999. Dưới thời kỳ Putin, một số giá trị và chính sách của Liên Xô được tái áp dụng, sự kiểm duyệt của nhà nước đối với các phương tiện thông tin đại chúng ở Nga tăng lên. Phương Tây luôn chỉ trích về nhân quyền ở Nga trong thời kỳ Vladimir Putin lãnh đạo, nhưng thời kỳ này đã chứng kiến việc Nga thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế và chính trị, và uy tín của Putin với người dân Nga tăng lên rất cao.

Với sự mất đi ảnh hưởng của Nga tại Gruzia (Cách mạng hồng), Ukraina (Cách mạng da cam), Kyrgyzstan (Cách mạng Tulip) và một số quốc gia cựu thành viên Xô viết cũ, cũng như các vấn đề hiện nay về kinh tế và chủ nghĩa ly khai (nổi cộm nhất là ở Chechnya), một số bình luận viên cho rằng có nguy cơ an ninh đối với nước Nga vẫn là rất cao.

Sau cuộc chiến chớp nhoáng (07 - 12/08/2008) nhằm trả đũa việc quân đội Gruzia tấn công những người Nga và lực lượng gìn giữ hòa bình của Nga ở Nam Ossetia, Nga công nhận độc lập và chủ quyền của 2 vùng tự trị AbkhaziaNam Ossetia (26/08/2008). Năm 2014, Nga sáp nhập bán đảo Crimea sau cuộc trưng cầu dân ý của người địa phương. Cuối năm 2015, Nga đem quân hỗ trợ chính phủ Syria trong cuộc chiến chống lại các nhóm nổi dậy và nhà nước Hồi giáo IS. Các động thái này cho thấy tham vọng của Nga trong việc lấy lại vị thế và tiếng nói trong khu vực SNG và cao hơn nữa có thể là việc trở lại vị thế siêu cường của Liên bang Xô viết trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới.

Chính phủ và chính trị

[sửa | sửa mã nguồn]
Lối vào Thượng viện Kremli, một phần của Điện Kremli và là nơi làm việc của Tổng thống Nga.

Theo hiến pháp Nga sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, được thông qua trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 12 tháng 12 năm 1993 sau cuộc khủng hoảng hiến pháp Nga năm 1993, Nga là một liên bang và theo chính thức là một nền cộng hoà bán tổng thống, theo đó Tổng thống là nguyên thủ quốc gia[51]Thủ tướnglãnh đạo chính phủ. Nga được cơ cấu theo nền tảng một chế độ dân chủ đại diện. Quyền hành pháp thuộc chính phủ.[52] Quyền lập pháp thuộc hai viện của Quốc hội Liên bang.[53] Chính phủ được điều chỉnh bằng một hệ thống kiểm tra và cân bằng được định nghĩa trong Hiến pháp Liên bang Nga, là tài liệu pháp lý tối cao của đất nước và khế ước xã hội cho người dân Liên bang Nga. Chính phủ Liên bang gồm ba nhánh:

Đài kỷ niệm Người cưỡi ngựa đồng phía trước Toà án Hiến pháp Nga tại Sankt Peterburg.

Theo hiến pháp, phán quyết tại toà dựa trên tính bình đẳng của mọi công dân,[54] các thẩm phán là độc lập và chỉ làm theo pháp luật,[55] các phiên toà được mở và người bên bị được quyền có luật sư bào chữa.[56] Từ năm 1996, Nga đã quy định đình hoãn hình phạt tử hình, dù hình phạt tử hình chưa bị pháp luật bãi bỏ.

Tổng thống được bầu theo phổ thông đầu phiếu với nhiệm kỳ sáu năm (được tham gia tranh cử nhiệm kỳ hai nhưng bị hiến pháp cấm cầm quyền ba nhiệm kỳ liên tiếp);[57] cuộc bầu cử gần nhất được tổ chức năm 2018. Các bộ của chính phủ gồm thủ tướng và các phó thủ tướng, bộ trưởng và các cá nhân được lựa chọn khác; tất cả đều do tổng thống chỉ định theo sự giới thiệu của Thủ tướng (tuy nhiên việc chỉ định thủ tướng phải được Duma Quốc gia thông qua).

Nhánh lập pháp quốc gia là Quốc hội Liên bang, gồm hai viện; Duma Quốc gia với 450 thành viên[58]Hội đồng Liên bang 176 thành viên. Các đảng chính trị lớn của Nga gồm Nước Nga Thống nhất, Đảng Cộng sản, Đảng Dân chủ Tự do Nga, và Nước Nga Công bằng.

Quan hệ ngoại giao

[sửa | sửa mã nguồn]
Lãnh đạo các quốc gia BRIC năm 2008: (trái sang phải) Manmohan Singh của Ấn Độ, Dmitry Medvedev của Nga, Hồ Cẩm Đào của Trung Quốc và Luiz Inácio Lula da Silva của Brasil.

Liên bang Nga được luật pháp quốc tế công nhận là nhà nước kế tục của Liên Xô cũ.[27] Nga tiếp tục thực hiện các cam kết quốc tế của Liên Xô, và đã nhận chiếc ghế thường trực của Liên Xô tại Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, tư cách thành viên trong các tổ chức quốc tế khác, các quyền và nghị vụ theo các hiệp ước quốc tế, tài sản và các khoản nợ. Nga có chính sách đối ngoại đa dạng. Ở thời điểm năm 2009, nước này có quan hệ ngoại giao với 173 quốc gia và có 142 đại sứ quán.[59] Chính sách đối ngoại được Tổng thống Nga vạch ra và được Bộ ngoại giao thực hiện.[60]

Là một trong thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, Nga đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì hoà bình và an ninh quốc tế. Nước này tham gia vào Nhóm bộ tứ cho Trung ĐôngĐàm phán sáu bên về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Nga là một thành viên của G8, Hội đồng châu Âu, OSCEAPEC. Nga thường có vai trò lãnh đạo trong các tổ chức cấp vùng như CSI, EurAsEC, CSTO, và SCO. Cựu tổng thống Vladimir Putin đã ủng hộ một đối tác chiến lược với sự hội nhập ở nhiều cấp độ gồm cả việc thành lập bốn không gian chung giữa Nga và EU.[61] Từ khi Liên Xô sụp đổ, Nga đã phát triển một mối quan hệ thân cận hơn dù không ổn định với NATO. Hội đồng NATO-Nga được thành lập năm 2002 để cho phép 26 nước Đồng minh và Nga cùng làm việc như những đối tác bình đẳng để theo đuổi sự hợp tác chung.[62]

Mối quan hệ giữa Nga và Hoa Kỳ trở nên ngày càng căng thẳng trong những năm gần đây sau những sự kiện như cuộc khủng hoảng ở Ukraina năm 2014 dẫn tới việc Nga sáp nhập Crimea, sự can thiệp quân sự của Nga trong cuộc Nội chiến Syria vào năm 2015, và từ cuối năm 2016 với những nghi ngờ về một sự can thiệp của Nga vào cuộc bầu cử tổng thống tại Mỹ.

Quan hệ giữa Nga và Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu trong các vấn đề song phương và đa phương thời gian qua. Liên minh Nga – Trung Quốc hoạt động dựa trên nguyên tắc về lợi ích chung nhưng quan hệ chiến lược với Trung Quốc sẽ thực sự là một áp lực trong thập kỷ tiếp theo. Vấn đề trở ngại lớn nhất là sự nới rộng khoảng cách giữa Trung Quốc là nền kinh tế bùng nổ và một nước Nga kém hiện đại hóa đang già cỗi về chính trị. Nga là nạn nhân của sự chuyển hướng toàn cầu sang phương Đông bởi vì nước Nga không thể thích nghi với những đòi hỏi của kỷ nguyên hậu công nghiệp và quan hệ đối tác cân bằng với Trung Quốc trở nên thiếu bền vững và nỗi lo ngại cũ về "mối đe dọa Trung Quốc" sẽ tái hiện.[63] Đối với Trung Quốc, Nga vẫn là một nguồn cung cấp dầu khí hữu ích, tuy kém quan trọng hơn nhiều so với vùng Vịnhchâu Phi.

Theo Ngoại trưởng Sergei Lavrov, Nga cần phải xây dựng "liên minh hiện đại hoá" với các nước châu Âu để tiếp thu những công nghệ cần thiết và "cần tìm cơ hội khai thác tiềm năng công nghệ của Mỹ" khiến cho Mỹ hết sức cảnh giác. Nga coi Đức, Pháp, ÝTây Ban Nha là những đối tác gần gũi nhất của Nga ở châu Âu.[64]

Trong khi Nga thường được công nhận rộng rãi là một cường quốc, trong những năm gần đây một số nhà lãnh đạo thế giới, học giả, các nhà bình luận và chính trị gia đã nhìn nhận về Nga như một siêu cường đang phục hồi hoặc một siêu cường tiềm năng dù họ đang bị tụt lùi hơn so với phía Trung Quốc.[65][66][67][68][69][70]

Nhân quyền

[sửa | sửa mã nguồn]

Nga và Phương Tây thường xuyên có những bất đồng xung quanh vấn đề nhân quyền tại Nga. Các nước Phương Tây cáo buộc chính phủ Nga đã nhiều lần có những hành động vi phạm nhân quyền (bao gồm cấm truyền bá về cộng đồng LGBT, hạn chế tự do ngôn luận và ám sát nhà báo có tư tưởng đối lập). Đặc biệt, các tổ chức như Tổ chức Ân xá Quốc tế (Hoa Kỳ) coi Nga là không có đủ các điều kiện của một nhà nước dân chủ và chỉ trích chính phủ Nga về việc hạn chế các quyền chính trị và tự do dân sự đối với công dân của mình [71]. Freedom House, một tổ chức quốc tế được tài trợ bởi Hoa Kỳ, xếp Nga vào nhóm các nước "không tự do", đồng thời cáo buộc rằng các cuộc bầu cử ở Nga đã được dàn xếp một cách tinh vi [72] Tại cuộc họp báo chung với Tổng thống George Bush năm 2005 ở Slovakia, Tổng thống Nga Putin đã trả lời về các cáo buộc của phương Tây về vấn đề nhân quyền tại Nga. Ông cho rằng các quyền con người phải được áp dụng phù hợp với truyền thống văn hóa và quyền lợi quốc gia của Nga chứ không phải sự áp đặt từ phương Tây:

"Nước Nga đã đưa ra lựa chọn của mình theo hướng dân chủ. 14 năm trước, một cách độc lập, không bị bất cứ một sức ép nào từ bên ngoài, nó đã đưa ra quyết định đó trên cơ sở lợi ích của chính mình và lợi ích của người dân - những công dân của nó. Đó chính là lựa chọn cuối cùng của chúng tôi, và chúng tôi không có con đường quay trở lại.
Đầu tiên, chúng tôi không chuẩn bị tạo nên - sáng tạo bất kỳ một kiểu dân chủ đặc biệt nào của Nga; chúng tôi đang chuẩn bị đưa ra các nguyên tắc căn bản của một nền dân chủ từng được thành lập trên thế giới. Nhưng tất nhiên, tất cả các định chế dân chủ hiện đại - các nguyên tắc dân chủ phải tương xứng với tình trạng phát triển hiện tại của nước Nga, với lịch sử và truyền thống của chúng tôi.
Không hề có điều gì bất bình thường ở đây. Về hoạt động của các thể chế dân chủ chính, có thể có một số sự khác biệt, nhưng các nguyên tắc căn bản và nền tảng đang được áp dụng theo cách thức để chúng sẽ được phát triển bởi một xã hội hiện đại và văn minh...
Tôi tin rằng rất nhiều người sẽ đồng ý với tôi, việc áp dụng những nguyên tắc và tiêu chuẩn dân chủ không thể đi liên với sự sụp đổ quốc gia và sự nghèo đói của nhân dân."

Nga được xem như là một trong những quốc gia có thái độ phản đối gay gắt về vấn đề đồng tính luyến ái, với các cuộc thăm dò gần đây cho thấy đa số người Nga không chấp nhận đồng tính luyến ái và đã bày tỏ sự ủng hộ đối với những quy định pháp luật phân biệt đối xử chống lại người đồng tính.[73] Trong một cuộc thăm dò khác, 62,5% trong số 450 bác sĩ tâm thần được hỏi ý kiến ở Vùng Rostov coi đồng tính là một căn bệnh, và tới ba phần tư coi đó là hành vi vô đạo đức.[73]

Mặc dù nhận được sự chỉ trích từ phương Tây đối với tình trạng phân biệt đối xử, tội phạm và bạo lực chống lại người đồng tính, các thành phố lớn của Nga như Moskva và Sankt Peterburg được cho là có một cộng đồng LGBT phát triển mạnh[74][75]. Năm 2013, nước Nga dưới thời Tổng thống Vladimir Putin đã ra bộ luật cấm mọi hình thức tuyên truyền về đồng tính luyến áihôn nhân đồng tính[76] Bộ luật cấm những sự kiện cổ vũ cho người đồng tính, quy định việc cung cấp những thông tin "tuyên truyền việc về đồng tính nữ, lưỡng tính và chuyển giới" cho trẻ vị thành niên là phạm pháp, đồng thời các sự kiện cổ vũ cho quan hệ đồng tính cũng bị cấm. Đây là một nỗ lực nhằm tuyên dương những giá trị truyền thống của nước Nga và chống lại trào lưu cổ vũ đồng tính luyến ái, đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính đến từ các nước phương Tây, mà Chính phủ Nga tin rằng đang làm băng hoại giới trẻ và phá hủy nền tảng luân lý gia đình của nước Nga, khiến nước Nga suy yếu[77] 88% người dân Nga được phỏng vấn đã bày tỏ ủng hộ đối với lệnh cấm[78] Tổng thống Putin cho biết chính sách cấm đồng tính luyến ái là vấn đề quan trọng cho việc duy trì dân số đất nước:

"Người châu Âu đang chết dần (do già hóa dân số)... và hôn nhân đồng tính không thể tạo ra trẻ em", "chúng tôi có sự lựa chọn cho riêng chúng tôi (nước Nga), và chúng tôi đã làm thế vì đất nước của chúng tôi"[79].

Bên cạnh đó, từ năm 2015, Chính quyền thành phố Moskva và quốc hội Nga đã đề ra Ngày tình yêu gia đình để tập hợp các chiến dịch tuyên truyền bảo vệ giá trị gia đình truyền thống, ngăn chặn sự truyền bá của các nhóm hoạt động đồng tính, các tổ chức phi chính phủ đòi hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính[80].

Quân đội

[sửa | sửa mã nguồn]
Lính Nga trong một cuộc tập trận năm 2017.

Nga thừa hưởng quyền kiểm soát các tài sản của Liên Xô ở nước ngoài và hầu hết các cơ sở chế tạo và ngành công nghiệp quốc phòng Liên Xô.[81] Quân đội Nga được chia thành Các lực lượng lục quân, Hải quân, và Không quân. Cũng có ba nhánh quân đội độc lập: Các lực lượng tên lửa chiến lược, Các lực lượng quân sự không gian, và Quân nhảy dù. Năm 2014, Nga có 845.000 quân chính quy.

Nga có kho vũ khí hạt nhân lớn nhất thế giới. Họ có hạm đội tàu ngầm tên lửa đạn đạo đứng thứ hai và là nước duy nhất ngoài Hoa Kỳ có một lực lượng máy bay ném bom chiến lược hiện đại.[82] Lực lượng xe tăng Nga lớn nhất thế giới, đồng thời có lực lượng không quân và hải quân hùng hậu đứng thứ 3 thế giới.

Nước này có một ngành công nghiệp vũ khí lớn và phát triển thừa kế từ Liên Xô, có thể sản xuất hầu hết các loại trang thiết bị quân sự với chỉ một số ít loại vũ khí phải nhập khẩu. Tuy nhiên việc thiếu kinh phí mua sắm khiến năm 2010, chỉ có khoảng 10% vũ khí trang bị của Nga là được chế tạo mới sau năm 1991, phần lớn các thiết bị còn lại được chế tạo từ thời Xô Viết.[83] Nga nằm trong top các quốc gia cung cấp vũ khí, chiếm 30% thị phần thế giới và có sản phẩm bán tới 80 quốc gia [84] . Mọi công dân nam của Nga từ 18–27 tuổi phải đăng ký thực hiện nghĩa vụ một năm trong các lực lượng vũ trang. Hiện nay, quân đội Nga đã trải qua một quá trình nâng cấp thiết bị lớn trị giá khoảng $200 tỷ trong giai đoạn 2006 đến 2015.[85] Bộ trưởng quốc phòng Anatoliy Serdyukov[86] giám sát các cuộc cải cách lớn với mục đích chuyển đổi từ một quân đội tập trung đông đảo thành một lực lượng chuyên nghiệp nhỏ hơn.[87]

Chính phủ Nga công bố ngân sách quốc phòng năm 2014 là 2,49 nghìn tỉ rub (tương đương 69,3 tỉ USD), lớn thứ 3 sau Mỹ và Trung Quốc. Ngân sách này sẽ tăng lên 3,03 nghìn tỉ rub (83,7 tỉ USD) năm 2015, 3,36 nghìn tỉ rub (93,9 tỉ USD) năm 2016.[88]

Phân cấp hành chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Các đơn vị hành chính của Liên bang Nga

Xem thêm:

Liên bang Nga là sự hợp thành của một lượng lớn các chủ thể hành chính cấp liên bang, tổng cộng là 83 đơn vị hợp thành (chủ thể) từ 01 Tháng Ba 2008 như vậy. Sáu loại đối tượng liên bang được phân biệt tại Nga có 22 nước cộng hòa trong phạm vi liên bang có mức độ tự trị cao trong phần lớn các vấn đề và chúng gần như tương ứng với khu vực sinh sống của các bộ tộc người thiểu số ở Nga. Phần còn lại của lãnh thổ bao gồm 9 vùng (krai) và 46 tỉnh (oblast), 3 thành phố trực thuộc trung ương (Moskva, Sankt-PeterburgSevastopol), 1 tỉnh tự trị (avtonomnaya oblast) và 4 khu tự trị (avtonomnyi okrug).

Gần đây nhất, 8 vùng liên bang lớn về diện tích (5 vùng ở châu Âu và 3 vùng ở châu Á) đã được bổ sung như một thể chế hành chính giữa các thể chế hành chính nói trên và cấp độ quốc gia.

Ngày 18 tháng ba 2014, Nga và Krym đã ký hiệp ước gia nhập của nước Cộng hoà Krym và thành phố trực thuộc trung ương Sevastopol ở Liên bang Nga của Tổng thống Putin với Quốc hội. Trong giai đoạn chuyển tiếp này sẽ kéo dài đến 01 Tháng 1 năm 2015, hai bên sẽ giải quyết các vấn đề hội nhập các đối tượng mới "trong kinh tế, tài chính, tín dụng và hệ thống pháp luật của Liên bang Nga"

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Liên bang Nga trải dài trên phần phía bắc của siêu lục địa Á - Âu. Tuy rằng Nga chiếm phần lớn khu vực Bắc cực và cận Bắc cực nhưng có ít hơn về dân số, hoạt động kinh tế cũng như các sự đa dạng vật lý trên một đơn vị diện tích so với phần lớn các khu vực khác, phần lớn diện tích ở phía nam của khu vực này có phong cảnh và khí hậu đa dạng hơn. Phần lớn đất đai Nga là các đồng bằng rộng lớn, ở cả châu Âu và châu Á, được biết đến như là Siberia. Các đồng bằng này chủ yếu là thảo nguyên về phía nam và rừng rậm về phía bắc, với các tundra (lãnh nguyên) dọc theo bờ biển phía bắc. Các dãy núi chủ yếu nằm ở biên giới phía nam, chẳng hạn như Kavkaz (ở đây có đỉnh Elbrus, là điểm cao nhất thuộc Nga và châu Âu với cao độ 5,633 m) và dãy núi Altai, cũng như ở phần phía đông, chẳng hạn như dãy Verkhoyansk hoặc các núi lửa trên Kamchatka. Dãy Ural, là một dãy núi chạy theo hướng bắc - nam, tạo ra sự phân chia cơ bản giữa châu Âu và châu Á cũng là một dãy núi nổi tiếng.

Nga có đường bờ biển dài trên 37,000 km dọc theo Bắc Băng DươngThái Bình Dương[89], cũng như dọc theo các biển mang tính trong nội địa ít hay nhiều như biển Baltic, biển Đenbiển Caspi. Một số các biển nhỏ hơn là các phần của các đại dương như biển Barents, Bạch Hải, biển Kara, biển Laptevbiển Đông Siberi là các phần của Bắc Băng Dương, trong khi các biển như biển Bering, biển Okhotskbiển Nhật Bản thuộc về Thái Bình Dương. Các đảo chính bao gồm Novaya Zemlya, mũi Franz-Josef, quần đảo Tân Siberi, đảo Wrangel, quần đảo KurilSakhalin. (Xem).

Bản đồ địa lý tự nhiên của Nga cùng với các vùng trên bản đồ. Chú thích:
  • Hình ngôi sao: thủ đô
  • Hình chấm tròn: các thành phố và thủ phủ các bang
  • Hình tam giác: các trung tâm hành chính.

Các hồ chính bao gồm hồ Baikal, hồ Ladoga, biển hồ Caspihồ Onega.

Nội địa Trung Nga gần Zaraysk, Tỉnh Moskva
Dãy Đại Kavkaz gần Dombay, Karachay-Cherkessia
Các đồng bằng phía tây Siberia, Sông Vasyugan, Tỉnh Tomsk.
Rừng Taiga mùa đông, Tỉnh Arkhangelsk.

Biên giới

[sửa | sửa mã nguồn]

Cách thức thực tế phổ biến nhất để miêu tả nước Nga là miêu tả phần chính (phần tiếp giáp lớn với các quần đảo hay đảo ngoài biển của nó) và phần tách rời (khu vực Kaliningrad ở phía đông nam của biển Baltic).

Biên giới của phần chính và các bờ biển (bắt đầu từ phần xa nhất về phía tây bắc và tính ngược chiều kim đồng hồ) là:

Phần tách rời là tỉnh Kaliningrad, tỉnh này có:

  • Chung biên giới với:
  • Bờ biển phía tây bắc nhìn ra biển Baltic.

Các bờ biển thuộc các biển Balticbiển Đen của Nga có đường giao lưu ra đại dương ít trực tiếp và rắm rối hơn so với các bờ biển thuộc Thái Bình Dương và Bắc Băng Dương, nhưng cả hai đều có vai trò quan trọng. Biển Baltic cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 9 quốc gia có chung bờ biển này cũng như giữa phần lục địa chính của Nga với tỉnh Kaliningrad. Thông qua eo biển nằm trong Đan Mạch, và giữa nó với Thụy Điển thì biển Baltic thông ra biển BắcĐại Tây Dương về phía tây và bắc của nó. Biển Đen cho phép Nga có giao thương đường biển nhanh chóng với 5 quốc gia khác có chung bờ biển, thông qua các eo biển DardanellesMarmora liền kề với Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ để nối vào Địa Trung Hải với nhiều quốc gia có bờ biển ở đó và thông qua kênh đào Suez để sang Ấn Độ Dươngeo biển Gibraltar để sang Đại Tây Dương. Biển Caspi, hồ nước mặn lớn nhất thế giới, không có đường giao thông với biển cả.

Phạm vi không gian

[sửa | sửa mã nguồn]

Hai điểm xa nhau nhất tại Nga cách nhau khoảng 8,000 km trên đường trắc địa (geodesic). Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với Ba Lan, trên một khoảng đất dài 60 km chia vịnh Gdańsk với phá Vistula. Còn điểm kia nằm tại cực đông - nam của quần đảo Kuril, chỉ vài dặm cạnh đảo Hokkaido của Nhật.

Để diễn tả sự to lớn này, người ta thường nói là Nga bao trùm 11 múi giờ. Tuy nhiên, sự diễn tả này có thể gây nhầm lẫn vì hai điểm xa nhau nhất nếu tính theo kinh tuyến chỉ cách nhau 6,600 km trên đường trắc địa. Một trong hai điểm này nằm trên biên giới với Ba Lan (nói bên trên); còn điểm kia nằm trên đảo Diomede Lớn (đảo Ratmanova). Và hơn nữa, chính phủ Nga đã quyết định giảm số múi giờ từ 11 xuống 9, thậm chí là 5 để phát triển kinh tế.[90]

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]

Khí hậu Liên bang Nga được hình thành dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố xác định. Diện tích to lớn của đất nước và sự xa tách khỏi biển của nhiều vùng dẫn tới một kiểu khí hậu lục địa ẩmcận Bắc Cực, là kiểu khí hậu phổ biến ở châu Âu và vùng châu Á của Nga ngoại trừ lãnh nguyên và vùng cực đông nam. Các dãy núi ở phía nam ngăn chặn các khối không khí ấm từ Ấn Độ Dương, trong khi đồng bằng phía tây và phía bắc khiến nước này mở rộng với những ảnh hưởng từ Bắc CựcĐại Tây Dương.[91]

Một khu rừng bulô tại Siberia, tỉnh Novosibirsk. Bulô là loại cây quốc gia của Nga.

Trên hầu khắp lãnh thổ chỉ có hai mùa riêng biệt mùa đông và mùa hè, mùa xuân và mùa thu thường chỉ là những giai đoạn thay đổi ngắn giữa thời tiết cực thấp và cực cao[91]. Tháng lạnh nhất là tháng 1 (tháng 2 trên bờ biển), tháng ấm nhất thường vào tháng 7. Sự chênh lệch nhiệt độ lớn là điều thông thường. Vào mùa đông, nhiệt độ lạnh đi cả từ phía nam tới phía bắc và từ phía tây tới phía đông. Mùa hè có thể khá nóng và ẩm, thậm chí tại Siberia. Một phần nhỏ của bờ Biển Đen quanh Sochikhí hậu cận nhiệt đới.[92] Những vùng nội địa là những nơi khô nhất.

Động thực vật

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ bắc xuống nam đồng bằng Đông Âu, cũng được gọi là đồng bằng Nga, bị bao phủ trong lãnh nguyên Bắc Cực, những cánh rừng lá kim (taiga), những cánh rừng hỗn giao, đồng cỏ (thảo nguyên) và bán hoang mạc (bao quanh Biển Caspian), bởi những thay đổi trong thực vật phản ánh những thay đổi trong khí hậu. Siberia cũng có một mô hình tương tự nhưng chủ yếu là taiga. Nga có trữ lượng rừng lớn nhất thế giới,[93] được gọi là "lá phổi của châu Âu",[94] đứng thứ hai chỉ sau rừng mưa Amazon về khối lượng hấp thụ CO2. Những cánh rừng Nga sản xuất ra một khối lượng lớn oxy không chỉ cho châu Âu mà cho toàn thế giới.

Gấu xám là một biểu tượng của Nga.
Nơi sinh sống tự nhiên của Hổ Amur là vùng Viễn Đông Nga.

266 loài có vú780 loài chim tại Nga. Tổng cộng 415 loài thú đã được đưa vào Sách Đỏ Nga vào năm 1997,[95] và hiện đang được bảo vệ.

Một nông trại nhỏ tại Malinovka.

Nga có một nền kinh tế hỗn hợp có thu nhập trung bình cao với nguồn tài nguyên thiên nhiên khổng lồ, đặc biệt là dầu mỏ và khí tự nhiên. Quốc gia này có diện tích lớn nhất trên thế giới và là nhà sản xuất dầu lửa lớn nhất, vào năm 2016 kinh tế Nga đứng hàng thứ 13 trên thế giới và đứng thứ 5 châu Âu theo GDP danh nghĩa hoặc đứng thứ 6 trên thế giới và đứng thứ 2 châu Âu theo GDP theo sức mua tương đương (~3.300 tỷ USD năm 2016[96])

Hơn hai thập kỷ sau sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991, Nga vẫn còn đang cố gắng để thiết lập một nền kinh tế thị trường và để thu được sự phát triển kinh tế bền vững. Trong 5 năm đầu nền kinh tế Nga đã phát triển không ổn định do các cơ quan hành pháplập pháp còn nhiều bất đồng trong việc hoàn thiện công cuộc cải cách và các nền tảng công nghiệp của Nga chịu sự suy thoái nặng nề. Ngoài ra, sự thiếu hụt thực phẩm năm 1997, mà hậu quả của nó là đã phải cần đến sự trợ giúp quốc tế trên bình diện rộng, đã làm tổn thương nghiêm trọng lòng tự hào cũng như nền kinh tế nói chung của nước Nga mới ra đời.

Tuy thế, mặc dù không hiệu quả trong điều kiện kinh tế thị trường và khẩu vị của người tiêu dùng nhưng nền kinh tế cựu Xô viết nói chung đã được chấp nhận là đã tạo cho người dân Nga nói chung có mức sống tiêu chuẩn kể từ sau những năm giữa thập niên 1950 cao hơn so với công dân của nhiều quốc gia đã phát triển theo định hướng tư bản và kinh tế thị trường như México, Brasil, Ấn ĐộArgentina. Tuy thế, các chủng loại hàng tiêu dùng (cụ thể là quần áo và lương thực, thực phẩm) là tương đối đơn giản về mẫu mã, và sự thiếu hụt của hàng tiêu dùng trong gia đình đã bị kêu ca nhiều ở các khu vực thành thị.

Sau sự tan rã của Liên Xô, sự phục hồi nhỏ của Nga dưới ảnh hưởng của kinh tế thị trường lần đầu tiên diễn ra vào khoảng năm 1997. Trong năm đó, cuộc khủng hoảng tài chính châu Á đã lên đến điểm đỉnh trong việc phá giá của đồng rúp vào tháng 8 năm 1998, làm cho chính phủ bị vỡ nợ và làm suy giảm trầm trọng mức sống tiêu chuẩn của phần lớn dân chúng. Vì thế, năm 1998 cũng đã được ghi nhận như là năm của suy thoái và sự tăng cường rút vốn ra khỏi nền kinh tế.

Một trạm xăng của Rosneft. Nga là nhà xuất khẩu khí tự nhiên lớn nhất và nhà xuất khẩu dầu mỏ đứng thứ hai thế giới.

Tuy nhiên, nền kinh tế Nga đã phục hồi vừa phải trong năm 1999. Kinh tế Nga đã đi vào trong giai đoạn phát triển nhanh, GDP tăng trưởng trung bình 6,8% trên năm trong giai đoạn 1999-2004 trên cơ sở của giá dầu mỏ cao, đồng rúp yếu, và tăng trưởng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Nhưng sự phát triển kinh tế này là không đều: khu vực thủ đô Moskva cung cấp tới 30% GDP của toàn quốc.

Sự phục hồi kinh tế này cùng với cố gắng cải tổ của chính quyền trong các năm 2000-2001 để thúc đẩy cải cách về cấu trúc đang bị thụt lùi, đã làm tăng sự tin cậy của các nhà kinh doanh và đầu tư về triển vọng của nền kinh tế Nga trong thập niên thứ hai của thời kỳ chuyển đổi. Nga vẫn dựa chủ yếu vào xuất khẩu hàng hóa, cụ thể là dầu mỏ, khí đốt, kim loại và gỗ, các mặt hàng này chiếm trên 80% kim ngạch xuất khẩu, điều này làm cho Nga dễ bị thương tổn vì các biến động giá cả trên thị trường quốc tế. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Nga đã nhắm nhiều hơn vào nhu cầu về các mặt hàng tiêu dùng trong nước, là lĩnh vực có mức tăng trưởng trên 12% mỗi năm trong giai đoạn 2000-2004, chỉ ra sự lớn mạnh dần lên của thị trường nội địa. Những năm tiếp theo, tiêu thụ nội địa cao hơn và nền chính trị ổn định hơn đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Nga. Từ 1999-2008 kinh tế nước Nga đã liên tục có tăng trưởng mạnh mẽ, nhưng tăng trưởng đã chậm lại ở vài năm sau đó với sự suy giảm của giá dầu và khí đốt.

Với việc Hoa Kỳ, Liên minh châu Âu và các quốc gia khác áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế đối với Nga sau sự kiện Nga sáp nhập Crimea bất hợp pháp vào năm 2014 cùng với sự sụt giảm mạnh của giá dầu trong năm đó, nền kinh tế Nga đã lâm vào một cuộc khủng hoảng tài chính sâu sắc [97][98]. Cuộc khủng hoảng này đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế Nga, bao gồm cả người tiêu dùng và các công ty, cũng như có một tác động tiêu cực đến thị trường tài chính toàn cầu. Thực tế đã cho thấy, chính người dân Nga đang phải đối mặt với nhiều khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng này mang lại. Lệnh cấm vận của Phương Tây cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến sản xuất và tiêu dùng của Nga. Việc giá cả sẽ tăng do tình trạng thiếu hụt và lạm phát tăng, dẫn đến tiết kiệm giảm, tiền lương giảm và thất nghiệp gia tăng, hệ quả là chất lượng cuộc sống của người dân Nga giảm sút, đặc biệt là các gia đình trung lưu và những người Nga nghèo. Vào năm 2016, mức lương trung bình của người Nga chỉ là 450 $ một tháng (so với mức 967$ một tháng vào năm 2013), thấp hơn cả Trung QuốcBa Lan [99]. Tỉ lệ người sống dưới mức nghèo ở Nga đang có chiều hướng gia tăng, từ 16.1 triệu người năm 2015 đã nhảy vọt lên con số 19.2 triệu người năm 2016 [100]. Đổng rúp của Nga cũng liên tục mất giá. Tính đến tháng 3 năm 2016, giá trị của đồng rúp chỉ còn bằng 50% so với thời điểm tháng 7 năm 2014 [101].

Năm 2016, GDP của Nga đạt 3.300 tỷ USD theo sức mua tương đương, làm cho Nga trở thành nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới và thứ 2 ở châu Âu[96]. Năm 2021, GDP của Nga đạt 4.020 tỷ USD theo sức mua tương đương, vẫn là nền kinh tế lớn thứ 6 trên thế giới và thứ 2 ở châu Âu.

Thách thức lớn nhất đối với Nga là các biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của các xí nghiệp nhỏ và vừa (SME) trong điều kiện môi trường kinh doanh với hệ thống ngân hàng trẻ và khác thường, được nắm giữ bởi các tài phiệt Nga (oligarkhi). Nhiều ngân hàng Nga là sở hữu của các nhà doanh nghiệp hay các ông trùm, là những người thông thường sử dụng các khoản tiền gửi ở ngân hàng để cho các doanh nghiệp của chính mình vay mượn. Ngân hàng tái thiết và phát triển châu Âu (EBRD) và Ngân hàng thế giới (WB) đã có những cố gắng để kích hoạt khởi động các hoạt động ngân hàng thông thường bằng cách cấp vốn và mua lại các khoản nợ trong một số ngân hàng nhưng thành tựu thu được là không đáng kể.

Các vấn đề khác bao gồm sự phát triển mất cân bằng giữa các khu vực của Nga. Trong khi khu vực thủ đô Moskva là hối hả, có cuộc sống thịnh vượng với thu nhập trên đầu người nhanh chóng đạt tới mức của các nền kinh tế hàng đầu châu Âu thì phần lớn các khu vực còn lại, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và khu vực của người thiểu số ở châu Á, đã bị tụt lại đằng sau rất nhiều. Sự phân hóa thời kinh tế thị trường cũng cảm nhận được ở các thành phố lớn khác như Sankt-Peterburg, KaliningradEkaterinburg.

Trung tâm Thương mại quốc tế Moskva, Nga.

Thúc đẩy đầu tư nước ngoài cũng là một thách thức lớn. Ngoài ra, Nga cũng được hưởng lợi từ việc tăng giá dầu mỏ và vì thế có khả năng thanh toán các khoản nợ khổng lồ cũ. Sự phân bổ công bằng các thu nhập từ các nguồn tài nguyên thiên nhiên này từ công nghiệp cho các lĩnh vực khác cũng là một vấn đề. Việc định hướng cho người tiêu dùng và thúc đẩy chi tiêu vào hàng tiêu dùng là một việc khá khó khăn đối với nhiều khu vực ở các nông thôn, khi mà ở các khu vực này nhu cầu tiêu dùng rất đơn giản, mặc dù đã có nhiều tiến bộ đáng khen ngợi đã được thực hiện ở các thành phố lớn, đặc biệt là trong các lĩnh vực như may mặc, lương thực, thực phẩm, công nghiệp giải trí.

Việc bắt giữ nhà kinh doanh giàu có nhất Nga khi đó là Mikhail Khodorkovsky với các tội quy kết là gian lận và tham nhũng trong quá trình tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn dưới thời tổng thống Boris Yeltsin đã làm cho nhiều nhà đầu tư nước ngoài e ngại về tính ổn định của nền kinh tế Nga. Phần lớn những người giàu có nhất ở Nga hiện nay là nhờ việc mua bán các doanh nghiệp nhà nước khi đó với giá rẻ như bèo. Các quốc gia khác cũng bày tỏ sự e ngại và lo lắng với việc áp dụng "có lựa chọn" của luật pháp đối với các doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, một số tập đoàn quốc tế đã đầu tư rất lớn vào Nga. Theo Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Nga có khoảng 26 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp tích lũy của người nước ngoài trong giai đoạn 2001-2004 (trong đó 11,7 tỷ USD diễn ra trong năm 2004).

Tuy nhiên, chính phủ của ông Putin đã bị chỉ trích rằng đã không tạo ra được một môi trường kinh doanh thân thiện, không đẩy lùi được nạn tham nhũng và không gia tăng đầu tư vào các lĩnh vực có thể đưa nền kinh tế Nga bớt phụ thuộc vào việc xuất khẩu năng lượng. Khu vực dầu mỏkhí đốt của Nga chiếm tới gần 25% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và khoảng 30% tổng thu nhập ngân sách quốc gia.

Trong giai đoan 2000-2009, mức tăng trưởng trung bình hằng năm của nền kinh tế Nga đạt 5%; trong giai đoạn 2010-2019, mức tăng trưởng trung bình hằng năm sụt giảm còn 1,8%, trong đó năm 2015 và 2016 đều trải qua suy thoái. Sau năm 2015, mức tăng trưởng trung bình hằng năm của Nga giảm xuống còn 0,4%.[102] Vì những nguyên nhân nói trên, Nga đã chuyển từ một điểm đến đầu tư tốt nhất thế giới trong giai đoạn 2000-2009 thành một nước có rủi ro cao và thiếu sức hấp dẫn. Lý do chính cho sự kém hiệu quả của nền kinh tế Nga trong giai đoạn 2010-2019 là do các động lực tăng trưởng của thập kỷ trước đã cạn kiệt nhưng chính phủ Nga lại lựa chọn tăng quỹ dự trữ thay vì nâng cao hiệu quả kinh tế,[102]

Các nhà kinh tế chỉ ra một vấn đề của Nga là việc chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nguyên liệu thô như những năm 2000, khiến giá cả thị trường phụ thuộc vào biến động của thế giới. Chính quyền Putin đã nhiều lần hứa sẽ biến đổi đất nước từ đơn giản là một nhà xuất khẩu nguyên liệu thô sang một quốc gia đa dạng hơn, dựa trên các sản phẩm và dịch vụ công nghệ cao, nhưng chưa cho thấy hiệu quả.[103]

Nông nghiệp và lâm nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Tổng diện tích đất canh tác của Nga ước tính là 1.237.294 km vuông (477.722 sq mi), lớn thứ tư trên thế giới [104]. Từ năm 1999 đến năm 2009, nông nghiệp của Nga tăng trưởng đều đặn [105], và đất nước chuyển từ một nước phải nhập khẩu ngũ cốc trở thành nước xuất khẩu ngũ cốc lớn thứ ba thế giới sau EUHoa Kỳ [106]. Sản lượng thịt đã tăng từ 6,813.000 tấn năm 1999 lên 9.331.000 tấn trong năm 2008 và vẫn tiếp tục tăng [107]. Trong khi các trang trại lớn tập trung chủ yếu vào sản xuất ngũ cốc và các sản phẩm chăn nuôi như sữa hay trứng, các hộ gia đình tư nhân nhỏ đã sản xuất hầu hết lượng khoai tây, rau và trái cây của cả nước [108]. Nga hiện là nước sản xuất lúa mạch, kiều mạchyến mạch đứng đầu thế giới cũng như là một trong những nhà sản xuất và xuất khẩu lúa mạch đen, hạt hướng dươnglúa mì lớn nhất thế giới.

Trải dài từ biển Baltic đến Thái Bình Dương, Nga là quốc gia có diện tích rừng lớn nhất thế giới, chiếm 1/5 diện tích rừng của thế giới [109][110]. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu năm 2012 bởi Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc và Chính phủ Liên bang Nga, tiềm năng to lớn này vẫn chưa được khai thác đúng mức.[111] Nga hiện nay đã trở thành nước dẫn đầu thế giới về tình trạng phá rừng. Hàng loạt nhà máy gỗ của Trung Quốc mọc lên ở Nga mang tới việc làm và thu nhập nhưng đi kèm là nỗi lo tài nguyên rừng bị khai thác quá đà. Dù khai thác ồ ạt tại Nga, tất cả những dây chuyền sản xuất gỗ thành phẩm đều được thực hiện ở Trung Quốc, nơi đang hạn chế chặt chẽ việc khai thác gỗ nhằm bảo tồn rừng.[112] Vấn nạn phá rừng đã tồn tại từ nhiều năm nay và ngày càng khó kiểm soát. Từ năm 2000 đến nay, tổng diện tích rừng bị phá là 40 triệu ha, nhưng chỉ có một nửa diện tích được trồng lại. Rừng bị tàn phá mạnh tại các vùng Viễn Đông,  phía Tây Bắc và Siberia. Nạn phá rừng không chỉ gây thiệt hại về kinh tế, mà còn ảnh hưởng lớn đến môi trường và tàn phá các hệ sinh thái, làm tăng khí thải gây hiệu ứng nhà kính... Ngoài ra, diện tích rừng bị suy giảm do các nguyên nhân khác như cháy rừng, phát triển công nghiệp và khai thác khoáng sản cùng với việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp, xây dựng nhà ở và giao thông.[113]

Công nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]
Xe UAZ-452, một sản phẩm công nghiệp phổ biến của hãng UAZ đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới. Hình chụp năm 2009.

Nga được thừa hưởng nền tảng công nghiệp rất mạnh của Liên Xô, siêu cường công nghiệp đứng thứ 2 thế giới. Sau khi Liên Xô tan rã, khoảng 60% các cơ sở công nghiệp của Liên Xô thuộc về lãnh thổ Nga, các cơ sở này đảm bảo duy trì được vị thế cường quốc công nghiệp của Nga trên thế giới.

Tuy nhiên, giai đoạn kinh tế trì trệ thập niên 1990 khiến các cơ sở công nghiệp của Nga bị suy yếu đi nhiều. Theo kết quả khảo sát 2013 do Trung tâm nghiên cứu vĩ mô (CMR) của ngân hàng Sberbank của Nga công bố thì nền tảng công nghiệp Nga đang bị lão hóa. Gần 60% các xí nghiệp Nga cần nâng cấp trang thiết bị trong vòng 3 năm tới để duy trì hoạt động cũng như thị phần nội địa. Các mặt hàng công nghiệp nhẹ của Nga có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới tương đối yếu trong tương lai gần. Có tới 36% xí nghiệp được hỏi ý kiến cho biết họ không có kế hoạch mở rộng sản xuất trong vòng 5 năm tới; 38% nói có lẽ họ sẽ mở rộng trên thị trường nội địa; 19% nhắm vào các thị trường gần là các nước thành viên Cộng đồng các quốc gia độc lập (CIS) và chỉ có 9% có kế hoạch mở rộng kinh doanh ra thị trường thế giới trong dài hạn. Gần 83% xí nghiệp Nga được hỏi ý kiến nói họ chỉ có thể bán sản phẩm trên thị trường trong nước, trong khi 88% nói nguồn cung chủ yếu cho xí nghiệp về nguyên liệu và thiết bị là nguồn cung nội địa[114]

Máy bay MiG-29 của Nga phục vụ trong quân đội Iran (2011)

Theo Phó Bộ trưởng Công nghiệp và Thương mại Nga Sergei Tsyb thì lĩnh vực công cụ máy móc công nghiệp Nga đang nhập khẩu lên tới 90%, kỹ thuật máy hạng nặng đang nhập khẩu khoảng từ 60-80% và ngành công nghiệp điện tử nhập khẩu từ 80-90%. Để giảm sự phụ thuộc của Nga vào các nhà cung cấp phương Tây trong hầu hết các ngành công nghiệp quan trọng như trên, Nga dự kiến sẽ giảm chỉ số nhập khẩu từ 70-90% xuống còn 50-60% vào năm 2020 nhưng việc thay thế hoàn toàn việc nhập khẩu là điều không thể.[115]

Trong thời Chiến tranh Lạnh, các tổ hợp công nghiệp của Liên Xô đảm bảo duy trì nền quân sự Xô viết mạnh mẽ với nguồn ngân sách thường chiếm từ 10-20% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Liên Xô. Công nghiệp vũ khí của Nga là khu vực hiện đại nhất và nằm trong định hướng xuất khẩu của Nga. Xuất khẩu vũ khí của Nga luôn giữ vị trí thứ 2 trên thế giới về giá trị.

Nếu như tại Mỹ, các tổ hợp công nghiệp quốc phòng và các dự án vũ trụ tập trung vào một số tập đoàn khổng lồ độc quyền và một hệ thống dịch vụ hậu cần làm việc dưới sự chỉ đạo của Bộ quốc phòng và NASA thì nền công nghiệp quốc phòng Nga hiện nay phân tán thành rất nhiều các xí nghiệp nhỏ. Với một chu trình sản xuất cồng kềnh và nhiều tầng nấc như vậy khó có thể đạt được một kết quả tích cực và đột phá nào trong ngành công nghiệp quốc phòng vì mâu thuẫn lợi ích của rất nhiều thành viên tham gia vào chu trình sản xuất đó[116]. Độ tuổi trung bình của những người đang làm việc trong các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Nga là từ 55 đến 57 (số liệu tháng 5/2013). 30% trong số đó đã ngoài 60 trong khi giới trẻ không chịu vào làm việc vì lương thấp. Để khắc phục những vấn đề này, hiện nay, Nga đang tiến hành sáp nhập các nhà máy quốc phòng thành các tổ hợp lớn hơn để khắc phục những điểm yếu trên và nâng cao sức cạnh tranh[cần dẫn nguồn].

Công nhân kỹ thuật sản xuất bên trong nhà máy hóa chất OAO Novosibirsk

Nước Nga hiện nay được thừa hưởng từ chế độ Xô Viết ba nhóm công nghiệp cơ bản với khả năng cạnh tranh cực cao là các tổ hợp công nghiệp - quốc phòng, ngành công nghệ vũ trụ và chế tạo máy và trang thiết bị công nghệ hạt nhân. Các tổ hợp công nghiệp - quốc phòng và công nghiệp vũ trụ, trong vòng 20 năm từng lâm vào tình trạng suy thoái. Các kỹ sư của các xí ngiệp công nghiệp quốc phòng Nga lớn nhất phải thực tập ở 5 trung tâm công nghệ ở ÝĐức.[117] Tuy nhiên với sự quan tâm và rót ngân sách từ chính phủ, hiện nay các ngành này đang phát triển trở lại[cần dẫn nguồn]. Từ sau khi Mỹ ngừng sử dụng tàu con thoi năm 2010, Nga là nước duy nhất có thể tự tiến hành việc phóng tên lửa lên vũ trụ để vận chuyển hàng cho trạm vũ trụ quốc tế ISS. Để thay thế tàu con thoi cũ, tên lửa SpaceX của Mỹ đã 9 lần phóng thành công lên quỹ đạo, mục tiêu là có thể tái sử dụng nhiều lần[118], tuy nhiên SpaceX mới hạ cánh thành công 2 lần và đến cuối 2016 mới thử nghiệm sử dụng tên lửa tái chế. Còn từ đây đến năm 2022, Mỹ vẫn sẽ phải mua 18 động cơ tên lửa RD-180 của Nga để đưa hàng lên vũ trụ[119]

Nga còn thành lập các công ty ở phương Tây để bí mật thu mua, đặt hàng các linh kiện điện tử từ các nhà sản xuất Mỹ rồi đem về đóng gói và xuất chúng sang cho các công ty ở Nga. Các linh kiện này dùng cho Bộ Quốc phòng Nga, Tổng cục An ninh Liên bang Nga (FSB) và ngay cả các pháp nhân Nga liên quan đến việc thiết kế vũ khí và đầu đạn hạt nhân. Đặc vụ FBI nói rằng hoạt động này đã hủy hoại đáng kể an ninh quốc gia của Mỹ bằng việc thu mua các linh kiện điện tử tối tân, kỹ thuật cao và đưa lậu chúng đến Nga, từ đó các linh kiện điện tử này giúp nâng cao năng lực của cơ quan tình báo Nga, góp phần hiện đại hóa cả quân đội và chương trình vũ khí hạt nhân của Nga[120]. Được biết, linh kiện điện tử mà công ty Nga mỗi năm mua của Mỹ trị giá khoảng 2 tỷ USD.

Khi Nga bị phương Tây áp đặt lệnh trừng phạt do can thiệp vào cuộc khủng hoảng tại Ukraina thì doanh nghiệp quân sự và hàng không vũ trụ của họ phải lập kế hoạch chuyển sang những đối tác mới. Các công ty này đã mua nhiều linh kiện điện tử với tổng trị giá hàng tỷ USD từ Trung Quốc.[121] Tuy trình độ của Trung Quốc không phải là cao nhất thế giới, nhưng hệ thống sản xuất của nước này rất hoàn chỉnh, khả năng tự cung tự cấp rất mạnh và luôn liên tục phát triển. Hợp tác quy mô lớn với doanh nghiệp sản xuất Trung Quốc trong lĩnh vực vi điện tử sẽ là bước đầu tiên trong việc hình thành liên minh công nghệ quốc gia BRICS. Với việc Trung Quốc sử dụng hệ thống nghiên cứu sản xuất linh kiện hiện có và kho nhân tài công nghệ, còn Nga phát huy những ưu thế có được trong các dự án nghiên cứu hàng chục năm qua, sự hợp tác công nghệ cao giữa 2 nước có thể phá vỡ được ưu thế của phương Tây trong lĩnh vực linh kiện điện tử. Ngay cả tên lửa đẩy siêu cấp Angara mà Nga đang nghiên cứu cũng có thể đang sử dụng linh kiện nước ngoài, vì vậy một khi phương Tây ngừng cung cấp cho Nga thì Nga có thể chuyển sang mua từ Trung Quốc.[122]. Tuy Trung Quốc có thể giúp Nga giải quyết nhiều vấn đề nhưng không thể giải quyết toàn bộ vấn đề được. Một là tính năng sản phẩm liệu có thể có thể thay thế hoàn toàn sản phẩm tương tự của phương Tây, 2 là chủng loại liệu có đủ hoàn toàn, 3 là linh kiện mới có thể vẫn cần một thời gian hoạt động với nền tảng của Nga. Tuy nhiên, việc mua linh kiện điện tử từ Trung Quốc có một chút lợi thế, một là cung ứng đảm bảo, hai là giá sẽ tương đối ưu đãi.

Sau khi Liên Xô giải thể rất khó nhìn thấy những thương hiệu công nghiệp dân dụng của Nga, thậm chí thương hiệu công nghiệp nhẹ cũng không có. Lĩnh vực có thể thấy hàng Nga phổ biến là thương hiệu Vodka và các sản phẩm quân sự.[123]

Năng lượng

[sửa | sửa mã nguồn]
Turbin của nhà máy điện hạt nhân Balakovo của Nga năm 2004.
Bên trong Viện Vật lý năng lượng tại thành phố Protvino

Nga được thừa nhận là một siêu cường năng lượng. Nga là một trong các quốc gia có sản lượng khí đốt hàng đầu thế giới, trữ lượng dầu mỏ đứng thứ tám, thứ hai về trữ lượng than.

Nga là nhà xuất khẩu khí tự nhiênnhà sản xuất khí tự nhiên hàng đầu thế giới, dù thỉnh thoảng Nga và Ả Rập Xê Út thay đổi vị trí về tiêu chí. Châu Âu hiện nhập khẩu đến 1/3 nhu cầu khí đốt từ Nga, mặc dù thời gian qua châu lục này đã cố gắng giảm phụ thuộc vào năng lượng của Nga. Hoa Kỳ đã tăng nguồn cung cấp khí đốt cho châu Âu. Tuy nhiên, hiện nay chỉ có 6% lượng nhập khẩu khí đốt của châu Âu là tới từ Hoa Kỳ. Sự phụ thuộc vào nguồn khí đốt của Nga ở châu Âu vẫn rất lớn. Ở Italy, khí đốt Nga chiếm 37% lượng nhập khẩu. Ở Đức tỉ lệ này khoảng 28%. Sự phụ thuộc vào nguồn năng lượng nhập khẩu của Slovenia, Hy LạpHungary ở mức từ 41-45%. Không có khí đốt của Nga, họ sẽ đối mặt với tình trạng thiếu hụt nhiên liệu nghiêm trọng sau khoảng 10 ngày. Đặc biệt là Cộng hòa Séc, Slovakia, Phần Lan, Litva, Latvia, Estonia gần như phụ thuộc 100% vào khí đốt Nga.[124] Mặt khác kinh tế Nga cũng lệ thuộc rất nhiều vào xuất khẩu nhiên liệu hóa thạch và năng lượng, chiếm tới 64% tổng kim ngạch xuất khẩu của Nga. Ngành dầu khí chiếm đến 46% tổng chi tiêu của chính phủ Nga và đóng góp tới 30% GDP của nước này.[125]

Nga là nước sản xuất điện hàng thứ 4 thế giớinhà sản xuất năng lượng tái tạo hàng thứ 5 thế giới, tiêu chí sau nhờ nước này đã phát triển mạnh việc sản xuất thủy điện. Những nhà máy thủy điện lớn đã được xây dựng ở vùng châu Âu của Nga dọc theo các con sông như Volga. Vùng châu Á của Nga cũng có một số nhà máy thủy điện lớn, tuy nhiên, tiềm năng thủy điện vĩ đại của SiberiaViễn Đông Nga phần lớn vẫn chưa được khai thác.

Nga là nước đầu tiên phát triển lò phản ứng hạt nhân dân sự và xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên. Hiện tại, Nga là nhà sản xuất điện hạt nhân đứng thứ 4. Rosatom quản lý toàn bộ các nhà máy điện hạt nhân tại Nga. Năng lượng hạt nhân đang phát triển nhanh chóng tại Nga, với mục tiêu tăng tổng thành phần năng lượng hạt nhân từ mức 16.9% hiện nay lên 23% vào năm 2020. Chính phủ Nga có kế hoạch chi 127 tỷ rubles ($5.42 triệu) cho một chương trình liên bang để phát triển việc sản xuất năng lượng hạt nhân thế hệ tiếp theo. Khoảng 1 nghìn tỷ ruble ($42.7 triệu) đã được chi từ ngân sách liên bang cho việc phát triển năng lượng hạt nhân và phát triển công nghiệp trước năm 2015.[126] Nga vẫn là một trong những nước đứng đầu thế giới về công nghệ hạt nhân và là một thành viên của dự án lò phản ứng hạt nhân quốc tế.

Gazprom, gã khổng lồ khí đốt của Nga đã phải vật lộn để tìm công nghệ cho mỏ ngoài khơi Nam Kirinskoye ở Viễn Đông sau khi các lệnh trừng phạt của Mỹ cấm bất kỳ công ty Mỹ nào cung cấp thiết bị dưới đáy biển. Việc phát triển thêm các dự án khí đốt tự nhiên hóa lỏng đặc biệt dễ bị tổn thương vì Nga thiếu hầu hết các bí quyết, bao gồm cả công nghệ hóa lỏng thương mại quy mô lớn.[127]

Mặc dù các nhà sản xuất dầu trong nước đang theo đuổi chiến lược thay thế nhập khẩu thông qua các trung tâm nghiên cứu và phát triển trong nước nhưng việc phát triển các công nghệ khả thi về mặt thương mại và sản xuất nội địa hóa đầy đủ các thiết bị cần thiết có thể sẽ mất nhiều năm. Bộ năng lượng Nga cảnh báo Nga đã tiếp tục lập kỷ lục sản xuất dầu thời hậu Xô Viết nhưng các quan chức lo ngại sẽ sụt giảm tới 40% trong vòng 15 năm tới (kể từ 2019) nếu không có giải pháp công nghệ hiệu quả nào được đưa ra.[127]

Giao thông vận tải

[sửa | sửa mã nguồn]
Bên trong một nhà ga tàu điện ngầm ở Moscow (ga Komsomolskaya)

Vận tải đường sắt ở Nga nằm dưới sự kiểm soát độc quyền của công ty Russian Railways do nhà nước quản lý. Tổng chiều dài các tuyến đường sắt ở Nga là 85.500 km (53.127 mi) [128] chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Không giống như hầu hết các quốc gia khác trên thế giới, đường ray ở Nga sử dụng khổ rộng 1.520 mm (4 ft 11+2732 in), ngoại trừ 957 km (595 mi) đường ray trên đảo Sakhalin sử dụng khổ hẹp 1.067 mm (3 ft 6 in). Tuyến đường sắt nổi tiếng nhất ở Nga là Tuyến đường sắt xuyên SIberia (Transsib), trải dài trên 7 múi giờ và nắm giữ kỷ lục với các chuyến tàu dài nhất trên thế giới, như các chuyến Moscow- Vladivostok (9.259 km (5.753 mi)), Moscow- Bình Nhưỡng (10.267 km (6.380 mi) [129]Kiev-Vladivostok 11.085 km (6.888 mi)).[130]

Tính đến năm 2006, Nga có tổng cộng 933.000 km đường bộ, trong đó 755.000 km được trải nhựa.[131] Một số tuyến đường trong số này tạo nên hệ thống đường cao tốc liên bang Nga.

Tổng chiều dài đường thủy nội địa của Nga là 102.000 km, chủ yếu là sông hoặc hồ tự nhiên. Ở phần lãnh thổ châu Âu của đất nước, mạng lưới các kênh đào kết nối lưu vực của các con sông lớn. Các cảng biển lớn của Nga bao gồm cảng Rostov trên Sông Đông ở biển Azov, Novorossiysk ở Biển Đen, AstrakhanMakhachkala ở biển Caspian, Kaliningrad và St Petersburg ở biển Baltic, Arkhangelsk ở Biển Trắng, Murmansk ở biển Barents, Petropavlovsk -KamchatskyVladivostok ở Thái Bình Dương. Năm 2008, Nga sở hữu 1.448 tàu thương mại. Hạm đội tàu phá băng của Nga là hạm đội tàu phá băng chạy bằng năng lượng hạt nhân duy nhất trên thế giới, thúc đẩy việc khai thác kinh tế ở thềm lục địa Bắc Cực của Nga và phát triển giao thương đường biển qua tuyến biển Bắc giữa châu Âu và Đông Á.

Về tổng chiều dài đường ống, Nga chỉ đứng sau Hoa Kỳ. Hiện tại, nhiều dự án đường ống mới đang được thực hiện, bao gồm các đường ống khí đốt tự nhiên Nord StreamSouth Stream nối đến châu Âu lục địa, và đường ống dẫn dầu Đông Siberia - Thái Bình Dương (ESPO) đến Viễn Đông và Trung Quốc.

Nga có tổng cộng 1.216 sân bay,[132] bận rộn nhất là các sân bay Sheremetyevo, DomodingovoVnukovo ở Moscow và Pulkovo ở St. Petersburg.

Hầu hết các thành phố lớn của Nga có hệ thống giao thông công cộng rất phát triển, với các loại phương tiện giao thông công cộng phổ biến nhất là xe buýt, xe điện bánh hơi và tàu điện. Bảy thành phố của Nga, cụ thể là các thành phố Moscow, Saint Petersburg, Nizhny Novgorod, Novosibirsk, Samara, Yekaterinburg và Kazan có hệ thống tàu điện ngầm. Tổng chiều dài của các tuyến metro ở Nga là 465,4 kilômét (289,2 mi). Moscow MetroSaint Petersburg Metro là hai hệ thống tàu điện ngầm lâu đời nhất ở Nga, được khánh thành lần lượt vào các năm 1935 và 1955. Đây là hai trong số những hệ thống tàu điện ngầm nhanh nhất và bận rộn nhất trên thế giới, nổi tiếng với trang trí phong phú và thiết kế độc đáo tại các sân ga.

Cung điện Mùa đông tại Sankt-Peterburg, điểm du lịch nổi tiếng tại Nga

Ngành du lịch của Nga đã tăng trưởng nhanh chóng kể từ cuối thời kì Xô viết, đầu tiên là du lịch trong nước và sau đó là du lịch quốc tế, được thúc đẩy bởi di sản văn hóa phong phú và sự đa dạng tự nhiên tuyệt vời của đất nước. Các tuyến du lịch chính ở Nga bao gồm một cuộc hành trình vòng quanh các thành phố cổ ở Golden Ring, du lịch trên các con sông lớn như sông Volga và những chuyến đi dài trên Tuyến đường sắt xuyên Siberia nổi tiếng. Trong năm 2013, đã có tổng cộng 28,4 triệu lượt khách du lịch đến thăm Nga; khiến Nga trở thành nước có số lượng khách du lịch tham quan đứng thứ 9 trên thế giới. Số lượng khách du lịch tới từ phương Tây có sự suy giảm kể từ năm 2014 do lệnh trừng phạt kinh tế của Phương Tây đối với Nga [133].

Tính đến hết năm 2017, Liên bang Nga đã có 27 di sản thế giới được UNESCO công nhận, trong đó có 16 di sản văn hóa và 11 di sản tự nhiên. Ba di sản thế giới đầu tiên tại Nga được công nhận vào năm 1990 là Trung tâm lịch sử của Saint-Peterburg, Kizhi Pogost, Điện KremliQuảng trường Đỏ. Nga có 4 di sản chung với các quốc gia khác là Vòng cung trắc đạc Struve chung với Belarus, Estonia, Phần Lan, Latvia, Lithuania, Moldova, Na Uy, Thụy Điển, Ukraina, Mũi đất Kursh chung với Lithuania), còn Phong cảnh DauriaHồ Uvs là hai di sản chung với Mông Cổ. Địa điểm mới nhất được công nhận là Phong cảnh Dauria được công nhận vào năm 2017.

Các điểm đến được thăm nhiều nhất ở Nga là MoskvaSankt Peterburg, hai thành phố lớn nhất của đất nước. Được công nhận là Thành phố Nhân loại, 2 thành phố này có các bảo tàng nổi tiếng thế giới như Bảo tàng TretyakovBảo tàng Ermitazh, các nhà hát nổi tiếng như Nhà hát BolshoiNhà hát Mariinsky, các nhà thờ như Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily, Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ, Nhà thờ chính tòa Thánh IsaacNhà thờ Chúa Cứu thế trên Máu đổ, các công trình đầy ấn tượng như điện Kremli cùng với Pháo đài Thánh Phêrô và Phaolô, những quảng trường và những con phố xinh đẹp như Quảng trường Đỏ, Quảng trường Cung điện, Phố Tverskaya, Phố Nevsky ProspektPhố Arbat. Các cung điện và công viên được tìm thấy trong các dinh thự hoàng gia cũ ở ngoại ô Moskva (Kolomenskoye, Tsaritsyno) và St Petersburg (Peterhof, Strelna, Oranienbaum, Gatchina, Pavlovsk và Tsarskoye Selo). Ở Moskva vẫn còn tồn tại nhiều công trình kiến trúc của thời kỳ Liên Xô, cùng với đó là các tòa nhà chọc trời hiện đại mới được xây dựng, trong khi St Petersburg, có biệt danh là "Venice của phương Bắc", tự hào về các công trình kiến trúc cổ điển, những con sông, kênh rạch và cầu.

Các bãi biển ấm áp của Biển Đen đã hình thành nên một số khu du lịch biển nổi tiếng, chẳng hạn như Sochi, thành phố chủ nhà Thế vận hội mùa đông 2014. Những ngọn núi ở Bắc Kavkaz là nơi có các khu trượt tuyết nổi tiếng như Dombay. Điểm đến tự nhiên nổi tiếng nhất ở Nga là Hồ Baikal. Đây là hồ nước lâu đời nhất và sâu nhất trên thế giới, có làn nước trong như pha lê và được bao quanh bởi những ngọn núi. Các điểm du lịch tự nhiên phổ biến khác ở Nga bao gồm Kamchatka với những ngọn núi lửa và mạch nước phun, Karelia với các hồ và đá granit, dãy núi Altai phủ tuyết, và các thảo nguyên hoang dã của Tuva.

Khoa học, kỹ thuật và công nghệ

[sửa | sửa mã nguồn]
Trạm vũ trụ Hòa Bình

Từ đầu thế kỷ XVIII những cuộc cải cách của Pyotr Đại đế (người sáng lập Viện Hàn lâm Khoa học NgaĐại học Quốc gia Sankt Peterburg) và những đóng góp của những người từng tốt nghiệp tại đây như học giả Mikhail Lomonosov (người sáng lập Đại học Quốc gia Moskva) đã giúp nước Nga có được sự phát triển mạnh trong khoa học và phát minh. Trong thế kỷ XIX và XX nước này đã sản sinh ra một lượng lớn các nhà khoa học và nhà phát minh. Nikolai Lobachevsky, một Copernicus trong hình học, đã phát triển hình học phi Euclid. Dmitri Mendeleev phát minh ra Bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học, khuôn khổ chính của hoá học hiện đại. Gleb Kotelnikov phát minh ra ba lô, trong khi Evgeniy Chertovsky phát minh ra quần áo điều áp. Pavel YablochkovAlexander Lodygin là những nhà tiên phong vĩ đại trong kỹ thuật điện và là những nhà phát minh của những đèn điện đầu tiên. Alexander Popov là một trong những người phát minh radio, trong khi Nikolai BasovAlexander Prokhorov là hai người đồng phát minh ra tia lasermaser. Igor Tamm, Andrei SakharovLev Artsimovich đã phát triển ý tưởng tokamak để kiểm soát phản ứng tổng hợp hạt nhân và tạo ra nguyên mẫu đầu tiên của nó, sau này dẫn tới dự án ITER. Nhiều nhà khoa học và phát minh nổi tiếng của Nga là người di cư, như Igor SikorskyVladimir Zworykin, và nhiều nhà khoa học nước ngoài cũng đã làm việc ở Nga một thời gian dài như Leonard EulerAlfred Nobel.

Các thành tựu lớn nhất của Nga thuộc lĩnh vực công nghệ vũ trụthám hiểm vũ trụ. Konstantin Tsiolkovsky là cha đẻ của lý thuyết hàng không vũ trụ[134]. Các tác phẩm của ông đã tạo cảm hứng cho những kỹ sư tên lửa hàng đầu của Liên xô như Sergey Korolyov, Valentin Glushko và nhiều người khác đóng góp vào sự thành công của Chương trình Vũ trụ Liên xô ở những giai đoạn đầu của cuộc Chạy đua vào không gian. năm 1957 vệ tinh nhân tạo đầu tiên bay quanh Trái Đất, Sputnik 1, được phóng lên; năm 1961 ngày 12 tháng 4 chuyến bay đầu tiên của loài người vào vũ trụ đã được Yuri Gagarin thực hiện thành công; và nhiều người Liên xô và Nga khác đã thực hiện kỷ lục thám hiểm vũ trụ. Từ năm 1999 đến 2009 Nga là nước phóng tên lửa nhiều nhất, 245 tên lửa có tải trọng lên quỹ đạo thành công so với 218 của Mỹ [135] và cũng là nước duy nhất cung cấp các dịch vụ du lịch vũ trụ.[cần dẫn nguồn]

Thủ tướng Dmitry Medvedev đã lên tiếng cảnh báo rằng Nga đang mất dần danh tiếng và tiền của do các dự án vũ trụ thất bại, sau khi không thể đưa 2 vệ tinh lên quỹ đạo tháng 8/2012. Vụ phóng đã thất bại gây tổn thất lớn cho ngành công nghiệp hàng không vũ trụ Nga. Một sự cố tương tự năm 2011 đã khiến Nga mất một vệ tinh thông tin trị giá 265 triệu USD. Nga cũng từng thất bại trong vụ phóng tàu thăm dò Sao Hỏa Phobos-Grunt.[136] Ông Medvedev cũng cho rằng: "Chẳng cường quốc không gian nào lại chứng kiến nhiều vụ phóng vệ tinh và phi thuyền hỏng như Nga". Vì thế ông quyết định chấn chỉnh lại ngành công nghiệp vũ trụ của Nga[137] cũng như tiếp tục các chương trình thám hiểm Sao Hỏa khác[138][139] và đã hoàn thành chương trình Mars-500 để thu thập thêm nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực đưa người lên Sao Hỏa[140] Đây là dự án quốc tế của Nga, EU (Liên hiệp châu Âu) và Trung Quốc nhằm nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và tâm sinh lý của một toán phi hành gia quốc tế 6 người trên một chuyến bay giả định dài 520 ngày lên sao Hỏa và đi bộ trên đó.[141]

Sau khi Liên Xô sụp đổ, chính sách của Hoa Kỳ khuyến khích các cơ quan chính phủ và các công ty hàng không vũ trụ mua hàng của Nga và giữ cho các kỹ sư Nga bận rộn nhằm ngăn họ làm việc cho các quốc gia thù địch với lợi ích của Hoa Kỳ.[142] Nga hiện đang là một trong số các nhà cung cấp động cơ tên lửa vũ trụ cho Hoa Kỳ. Vì lý do an ninh quốc gia, Hoa Kỳ yêu cầu phải có ít nhất hai hệ thống phóng. Không quân Hoa Kỳ và NASA hiện đang dựa chủ yếu vào ba loại tên lửa là Delta IV và Atlas V được điều hành bởi ULA và Falcon 9 của SpaceX, trong đó riêng tên lửa Atlas V hiện đang sử dụng động cơ được thiết kế và chế tạo từ Nga là RD-180.[143] Bởi vì chi phí hoạt động Atlas V rẻ hơn Delta IV nên Delta IV được dành riêng để sử dụng với các tải trọng và quỹ đạo khó hơn mà Atlas V không thể xử lý được.

Dù đang cố phát triển động cơ riêng nhưng tập đoàn tên lửa vũ trụ của Nga Energomash cho rằng từ khâu thử nghiệm cho đến khi sản xuất thành công là khoảng thời gian rất dài, Hoa Kỳ sẽ cần trên 3 tỷ USD và khoảng thời gian 10 năm để sản xuất thay thế các động cơ Nga. Vì thế họ cho rằng Mỹ vẫn sẽ nhập động cơ tên lửa từ Nga cho dù có bị cấm[144] và mẫu nâng cấp của Antares sẽ được trang bị các động cơ này[145].

Soyuz TMA-2 đang được chuyển tới bệ phóng, mang theo phi đoàn thường trực đầu tiên lên Trạm Vũ trụ Quốc tế.

Các công nghệ khác, nơi người Nga có lịch sử phát triển, gồm công nghệ hạt nhân, sản xuất máy baycông nghệ quốc phòng. Việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên cùng các lò phản ứng hạt nhân đầu tiên cho tàu ngầmtàu hoạt động trên mặt nước nằm dưới sự chỉ đạo của Igor Kurchatov. Một số nhà kỹ thuật hàng không nổi bật của Liên xô, có cảm hứng từ các tác phẩm lý thuyết của Nikolai Zhukovsky, đã giám sát việc chế tạo hàng chục model máy bay quân sự và dân sự và đã thành lập một số KBs (Phòng thiết kế) hiện là thành phần chủ yếu của Liên đoàn Hàng không Hợp nhất. Các máy bay nổi tiếng của Nga gồm máy bay chở khách siêu thanh đầu tiên Tupolev Tu-144 của Alexei Tupolev, loạt máy bay chiến đấu MiG của Artem MikoyanMikhail Gurevich, và loạt máy bay Su của Pavel Sukhoi cùng những người kế tục ông. Những xe tăng chiến trường nổi tiếng của Nga gồm T-34, thiết kế xe tăng theo kênh Discovery là loại tốt nhất của Thế chiến II,[146] và các xe tăng khác thuộc loạt T. Súng AK-47AK-74 của Mikhail Kalashnikov là loại súng tấn công được sử dụng rộng rãi nhất tên thế giới - tới mức các khẩu súng thuộc kiểu AK đã được chế tạo nhiều hơn tất cả các loại súng tấn công khác cộng lại.[147][148]

Sukhoi PAK FA - Máy bay chiến đấu tàng hình thế hệ thứ 5.

Dù có những thành tựu công nghệ, từ thời trì trệ Brezhnev, Nga đã tụt hậu so với phương Tây trong một số ngành kỹ thuật, đặc biệt là trong tiết kiệm năng lượng và sản xuất hàng tiêu dùng. Cuộc khủng hoảng kinh tế hồi những năm 1990 đã khiến khoản hỗ trợ cho khoa học của nhà nước sụt giảm mạnh. Nhiều nhà khoa học và những người có trình độ của Nga đã đi sang châu Âu hay Hoa Kỳ; cuộc di cư này được gọi là một cuộc chảy máu chất xám. Những năm 2000, với làn sóng bùng nổ kinh tế, tình hình khoa học và công nghệ ở Nga đã được cải thiện, và chính phủ đã tung ra một chiến dịch với mục tiêu hiện đại hoácải tiến. Tổng thống Nga Dmitry Medvedev đã đưa ra 5 ưu tiên hàng đầu cho việc phát triển công nghệ của đất nước: hiệu quả năng lượng, IT (gồm cả các sản phẩm thông thường và các sản phẩm kết hợp với công nghệ vũ trụ), năng lượng hạt nhândược.[149] Mặc dù là nhà xuất khẩu hàng công nghiệp nặng hàng đầu thế giới và đang đạt được những tiến bộ về phần mềm, nhưng các sản phẩm hàng tiêu dùng của Nga lại thiếu tính cạnh tranh trên trường quốc tế do đơn điệu về mẫu mã. Cải thiện về năng suất sẽ chủ yếu xuất phát từ công nghệ mới và đầu tư vốn hiệu quả, hai điều mà Nga đang thiếu.[150]

Một số thành tựu mới đã xuất hiện, với việc nước Nga đã hoàn thành GLONASS, một trong 4 hệ thống vệ tinh định vị toàn cầu cùng với GPS của Mỹ, Hệ thống định vị Bắc Đẩu của Trung QuốcHệ thống định vị Galileo của châu Âu. Trong giai đoạn 2003-2014, 75-80% linh kiện điện tử dùng cho vệ tinh Glonass-M phải mua từ các nước phương Tây.[151] Chính phủ Nga đã phải tính đến khả năng dừng chế tạo vệ tinh GLONASS-K do không có các linh kiện đồng bộ từ nước ngoài sau khi phương Tây cấm xuất khẩu linh kiện cho Nga[152] Năm 2016, Nga đã lập kế hoạch đến năm 2024 sẽ tự sản xuất toàn bộ các linh kiện vệ tinh để tránh việc phải phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu. Năm 2019, Nga bắt đầu sản xuất các vệ tinh Glonass-K2, được phát triển bởi ISS Reshetnev (Hệ thống vệ tinh thông tin Reshetnev). Trong khi GLONASS-K có tới 90% thiết bị điện tử nhập từ nước ngoài thì GLONASS-K2 mới sẽ sử dụng toàn bộ các thành phần làm tại Nga, đồng thời Glonass-K2 sẽ có tuổi thọ hoạt động cao hơn 3 năm. Theo kế hoạch, 20 vệ tinh thế hệ mới "Glonass-K2" sẽ được phóng trong giai đoạn 2020-2031[153]

Nga là nước duy nhất xây dựng nhà máy điện hạt nhân di động và hiện đang là nước đi đầu trong nghiên cứu nhà máy điện hạt nhân thế hệ thứ 5 [cần dẫn nguồn] (loại này có hiệu suất tiêu thụ nhiên liệu hạt nhân vượt trội so với các nhà máy thế hệ trước, giúp việc sản xuất điện không tạo ra hoặc chỉ tạo ra rất ít chất thải phóng xạ)[cần dẫn nguồn]. Nga cũng cho ra đời các thiết kế quân sự mới như máy bay tàng hình Su-57, xe tăng T-14 Armata...

Do sự phân công sản xuất từ thời Liên Xô nên sau khi Liên Xô tan rã, một số nhà máy công nghiệp chủ chốt lại thuộc về nước khác chứ không thuộc về Nga, do vậy Nga bị thiếu khả năng sản xuất trong một số lĩnh vực (ví dụ như các nhà máy đóng tàu lớn thời Liên Xô hiện nay thuộc về Ucraina, nên Nga phải mua động cơ tàu biển từ nước này)[cần dẫn nguồn]. Trung Quốc cũng bắt đầu bán cho Nga các sản phẩm phục vụ mục đích quân sự. Tốc độ nhập khẩu tăng trưởng nhanh khi Trung Quốc bán cho Nga không chỉ các động cơ diesel, mà cả những thiết bị dành cho các tàu hỗ trợ quân sự. Đến năm 2017, doanh thu tiếp tục tăng và đó chỉ là sự khởi đầu vì trong tương lai Nga sẽ mua các thiết bị công nghệ từ Trung Quốc nhiều hơn nữa. Nga không thích ý tưởng mua sản phẩm của Trung Quốc mà muốn sản phẩm phương Tây, nhưng ngay khi phương Tây trừng phạt Nga, họ ngay lập tức phải quay sang mua hàng từ Trung Quốc.[154]

Trong lĩnh vực nghiên cứu các nguyên tố siêu nặng, Nga vẫn dẫn đầu thế giới khi lần đầu tiên thực hiện tổng hợp thành công 6 nguyên tố nặng nhất với số nguyên tử từ 113 đến 118. Đó là thành tựu 10 năm nghiên cứu (2000-2010) của các chuyên gia thuộc phòng thí nghiệm vật lý Flerov tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân ở Dubna gần Moscow. Hai nguyên tố trong số đó đã được Hiệp hội Hóa học cơ bản và hóa học ứng dụng Quốc tế (IUPAC) chính thức công nhận với hai cái tên Flerova (114) và Livermore (116).

Năm 2006, các nhà khoa học Nga đã tạo ra sự phát xạ ánh sáng mạnh nhất trên thế giới dựa trên công nghệ PEARL (Petawatt Parametric Laser) được tạo ra trong Viện vật lý ứng dụng Nizhny Novgorod thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga, dựa trên kỹ thuật khuếch đại tham số ánh sáng trong các tinh thể quang học phi tuyến. Công nghệ này có thể tạo ra xung động điện mạnh đến 0,56 petawatt, gấp hàng trăm lần công suất của tất cả các nhà máy điện trên thế giới cộng lại (1 petawatt = 1 triệu gigawatt). Các nhà khoa học Nga cũng tạo được từ trường nhân tạo mạnh chưa từng có, đạt đến 28 megagausses, gấp hàng trăm triệu lần so với từ lực của từ trường Trái Đất

Năm 2015, một nhà khoa học Nga là Vladimir Leonov tuyên bố đã thử nghiệm thành công một mẫu thử nghiệm động cơ lượng tử có hiệu suất mạnh gấp 5.000 lần động cơ tên lửa thông thường, sẽ tạo ra cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật trong thế kỷ XXI, tương tự cuộc cách mạng công nghệ thông tin trong thế kỷ XX. Động cơ lượng tử có thể đưa khí tài bay chuyển động với tốc độ 1000 km/giây, trong khi tốc độ tên lửa thông thường chỉ đạt tới mức tối đa 18 km/giây, nghĩa là tàu vũ trụ có thể bay tới sao Hỏa trong vòng 42 giờ, và tới Mặt trăng chỉ mất 3,6 giờ. Năng lượng cung cấp cho động cơ đến từ phản ứng nhiệt hạch lạnh (CNF): một kg nickel cho năng lượng tương đương một triệu kg xăng. Dùng động cơ này, máy bay sẽ chỉ cần nạp năng lượng một lần để bay trong vài năm. Thành tựu kỹ thuật này là kết quả vận dụng Lý thuyết siêu liên kết do các nhà khoa học Nga xây dựng nên.[155].

Ngày 11-8 năm 2020, Tổng thống Vladimir Putin đã phê duyệt vaccine COVID-19 đầu tiên trên thế giới do Trung tâm Nghiên cứu quốc gia về dịch tễ và vi sinh vật học Gamaleya của Nga phát triển.[156]

Theo tờ báo Kommersant, các cơ quan chính phủ và công ty nhà nước của Nga phải mua 700.000 PC và 300.000 máy chủ mỗi năm, trị giá tương ứng là 500 triệu USD và 300 triệu USD. Trong nỗ lực thúc đẩy năng lực tự sản xuất vi xử lý cho máy tính và máy chủ của các cơ quan nhà nước, Nga sẽ sớm thay thế các vi xử lý của Intel và AMD bằng vi xử lý nội địa Baikal.[157] Tuy nhiên Nga buộc phải đặt hàng sản xuất vi xử lý này tại nhà máy TSMC của Đài Loan do doanh nghiệp Mikron ở Zelenograd, doanh nghiệp phát triển nhất về mặt này ở Nga chỉ có thể sản xuất hàng loạt vi xử lý 90 nm.[158]

Nhân khẩu

[sửa | sửa mã nguồn]
Thành phần sắc tộc (2002)[159]
Người Nga 79,8%
Người Tatar 3,8%
Người Ukraina 2,0%
Người Bashkir 1,2%
Người Chuvash 1,1%
Người Chechnya 0,9%
Người Armenia 0,8%
Khác/không xác định 10,4%
Dân số (đơn vị triệu người) 1950 – 1991 của Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Nga trong Liên xô, 1991 – tháng 1 năm 2009 của Liên bang Nga.[160]

Liên bang Nga là một xã hội đa sắc tộc đa dạng, là nơi sinh sống của 160 nhóm sắc tộc và người bản xứ khác nhau.[161] Dù dân số Nga khá lớn, mật độ dân số thấp bởi diện tích vĩ đại của nước này.[162] Dân số tập trung đông nhất tại vùng châu Âu của Nga, gần dãy Ural, và ở phía tây nam Siberia. 73% dân số sống tại các khu vực đô thị.[163] Theo những ước tính sơ bộ, dân số sống thường xuyên tại Liên bang Nga ở thời điểm ngày 1 tháng 1 năm 2009 là 141,903,979 người. Năm 2008, dân số giảm 121,400 người, hay -0.085% (năm 2007 – 212,000 người, hay 0.15% và năm 2006 – 532,600 người, hay 0.37%). Trong năm 2008 nhập cư tiếp tục gia tăng ở mức độ 2.7% với 281,615 người tới Nga, trong số đó 95% tới từ các quốc gia thuộc CIS, đại đa số là người Nga hay người nói tiếng Nga.[160][164] Số lượng người Nga di cư đã giảm 16% xuống còn 39,508 người, trong số đó 66% tới các quốc gia thuộc CIS. Ước tính có 10 triệu người nhập cư bất hợp pháp từ các quốc gia Xô viết cũ ở Nga.[165] Khoảng 116 triệu người sắc tộc Nga sống ở Nga[166] và khoảng 20 triệu người nữa sống tại các nước cộng hoà cũ của Liên xô, chủ yếu tại UkrainaKazakhstan.[167]

Số người nói tiếng Nga đông nhất năm 1991 ở mức 148,689,000 triệu người, nhưng bắt đầu sụt giảm mạnh từ đầu những năm 90.[168] Sự sụt giảm đã chậm lại tới mức gần ồn định trong những năm gần đây vì tỷ lệ tử giảm, tỉ lệ sinh tăng và tăng nhập cư. Số người chết trong năm 2008 là 363,500 lớn hơn số sinh. Nó đã giảm từ 477,700 năm 2007, và 687,100 năm 2006.[160][164] Theo dữ liệu được Sở Thống kê Nhà nước Liên bang Nga xuất bản, tỷ lệ tử của Nga đã giảm 4% trong năm 2007, so với năm 2006, ở mức khoảng 2 triệu người chết, trong khi tỉ lệ sinh tăng 8.3% hàng năm lên ước tính 1.6 triệu ca sinh.[169] Các nguyên nhân chủ yếu khiến dân số Nga giảm sút là tỷ lệ tử cao và tỉ lệ sinh thấp. Tuy tỉ lệ sinh của Nga ngang bằng với các quốc gia châu Âu (13.3 ca sinh trên 1000 dân năm 2014[160] so với mức trung bình của Liên minh châu Âu 10.1 trên 1000) [170] dân số của họ lại giảm với tỷ lệ lớn hơn bất kỳ một quốc gia châu Âu nào khác bởi tỷ lệ tử cao hơn nhiều (năm 2014, tỷ lệ tử của Nga là 13.1 trên 1000 dân[160] so sánh với mức trung bình của Liên minh châu Âu là 9.7 trên 1000) [170]. Chính phủ Nga đã và đang thực hiện một số chính sách để tăng tỉ lệ sinh và thu hút người nhập cư. Các khoản trợ cấp hàng tháng của chính phủ dành cho các bậc cha mẹ có con nhỏ đã tăng gấp đôi lên 55 USD và khoản trợ cấp một lần là 9.200 USD đã được cung cấp cho những phụ nữ có con thứ hai kể từ năm 2007 [171]. Tháng 8 năm 2012 đã đánh dấu dân số Nga lần đầu tiên đạt mức tăng trưởng dương kể từ thập niên 90. Tổng thống Putin tuyên bố dân số Nga có thể đạt 146 triệu vào năm 2025, chủ yếu là nhờ kết quả của việc nhập cư [172].

Khi ông Putin nhậm chức, dân số Nga đã bị thu hẹp gần 1 triệu người mỗi năm. Moscow luôn coi đây là một "mối nguy hiểm cho chính sự tồn tại của Nga", một điều dường như khó để đảo ngược. Tuy nhiên, tỉ lệ sinh tăng lên khi điều kiện kinh tế Nga được cải thiện. Năm 2011, Tổng thống Putin tuyên bố rằng cuộc khủng hoảng nhân khẩu học đã bị đánh bại. Từ năm 2013 - 2015, dân số Nga có dấu hiệu tăng lần đầu tiên trong thế kỷ XXI. Tuy nhiên, dân số Nga lại một lần nữa giảm và với tốc độ nhanh hơn vào năm 2016. Số ca tử vong vượt qua số ca sinh trong 9 tháng đầu năm 2019 ở mức hơn 250.000 người. Theo cơ quan thống kê nhà nước Rosstat, đây là mức giảm tồi tệ nhất trong 11 năm qua.[103]

Cơ quan thống kê chính thức của Nga là Rosstat công bố năm 2013 đã có 186.382 người Nga rời khỏi đất nước vào năm 2013, tăng đáng kể so với chỉ 122.751 người vào năm 2012. Con số này cũng cho thấy sự gia tăng đáng kể so với 36.774 người trong năm 2011 và 33.578 người vào năm 2010.[173] Một số chuyên gia nghi ngờ tính xác thực của số liệu Rosstat, Cáo buộc rằng con số thực tế có thể cao hơn nhiều. Sự gia tăng số người di cư có thể là do sự cô lập chính trị quốc tế đang gia tăng đối với nước Nga dưới thời Vladimir Putin. Trong số những người rời khỏi nước Nga gần đây có nhiều nhân vật nổi tiếng như Pavel Durov, người sáng lập mạng xã hội VKontakte của Nga, chuyên gia kinh tế Sergei Guriyev và nhà vô địch cờ vua thế giới Garry Kasparov.

Ngôn ngữ

[sửa | sửa mã nguồn]
Các quốc gia có sử dụng tiếng Nga.

160 nhóm sắc tộc của Nga sử dụng khoảng 100 ngôn ngữ.[17] Theo cuộc điều tra dân số năm 2002, 142.6 triệu người nói tiếng Nga, tiếp sau là tiếng Tatar với 5.3 triệu và tiếng Ukraina với 1.8 triệu.[174] Tiếng Nga là ngôn ngữ chính thức duy nhất của nhà nước, nhưng Hiến pháp trao cho các nước cộng hoà riêng biệt quyền đưa ngôn ngữ bản địa của mình trở thành ngôn ngữ đồng chính thức bên cạnh tiếng Nga.[175] Dù có sự phân tán mạnh, tiếng Nga là thuần nhất trên toàn bộ nước Nga. Tiếng Nga là ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất nếu tính theo diện tích địa lý trên lục địa Âu Á và cũng là ngôn ngữ Slavơ được sử dụng nhiều nhất.[176] Tiếng Nga thuộc ngữ hệ Ấn Âu và là một trong những thành viên còn tồn tại của các ngôn ngữ Đông Slavơ; các ngôn ngữ khác gồm tiếng Belarustiếng Ukraina (và có lẽ cả tiếng Rusyn). Những ví dụ văn bản sử dụng chữ Đông Slavơ Cổ (Nga Cổ) được chứng minh có từ thế kỷ thứ X trở về sau.[177]

Theo người Nga thì hơn một phần tư tác phẩm khoa học của thế giới được xuất bản bằng tiếng Nga. Tiếng Nga cũng được sử dụng làm công cụ mã hoá và lưu trữ văn minh thế giới—60–70% của mọi thông tin trên thế giới được xuất bản bằng tiếng Anh và tiếng Nga.[178] Tiếng Nga cũng là một trong sáu ngôn ngữ chính thức của Liên hiệp quốc.

Giáo dục

[sửa | sửa mã nguồn]

Nga có một hệ thống giáo dục miễn phí đảm bảo cho mọi công dân theo hiến pháp,[179] và có tỷ lệ biết chữ 99.7% vào năm 2015. Đầu vào cao học có tính cạnh tranh rất cao.[180] Như một kết quả của sự ưu tiên hàng đầu cho khoa học và kỹ thuật trong giáo dục, y tế, toán học, khoa học và khoa học vũ trụ Nga nói chung có mức độ phát triển cao.[181][182] Tuy nhiên nạn tảo hôn vẫn khá phổ biến ở các làng mạc nông thôn, và 45% trẻ em Nga đi học muộn hơn độ tuổi quy định[183]

Trước năm 1990 quá trình học tập ở Liên xô dài 10 năm. Nhưng vào cuối năm 1990, thời gian học 11 năm đã được chính thức áp dụng. Giáo dục tại các trường cấp hai của nhà nước là miễn phí; giáo dục đầu cấp ba (mức đại học) cũng là miễn phí với việc dành trước: một phần lớn sinh viên được tuyển được Nhà nước bao cấp hoàn toàn (nhiều định chế nhà nước bắt đầu mở các khoá thương mại từ những năm gần đây[184]). Năm 2004 chi tiêu quốc gia dành cho giáo dục chiếm 3,6% GDP, hay 13% tổng ngân sách nhà nước[185] trong khi ở Mỹ là 7,2% GDP và Nga thua cả Việt Nam (8.3% GDP)[186]. Chính phủ bố trí các khoản tiền để trả học phí theo một hạn mức được lập sẵn, hay số lượng sinh viên cho mỗi trường của nhà nước. Điều này được coi là cơ bản bởi nó cung cấp cơ hội tiếp cận cao học cho các sinh viên có khả năng, chứ không phải chỉ cho những người có tiền trả. Ngoài ra, các sinh viên được trả một khoản học bổng nhỏ và được cung cấp nơi ở miễn phí. Ngoài các cơ sở giáo dục cao học của nhà nước, nhiều cơ sở tư nhân cũng đã xuất hiện và cung cấp lực lượng nhân lực chất lượng cao cho các lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ mới và kinh tế.[187]

Trong các trường đại học Nga có hơn 3 triệu giáo viên và nhân viên nghiên cứu, trong đó gần 45% giáo sưphó giáo sư. Ngoài ra Nga hiện có gần 2000 trường đại học, học viện và các cơ cấu giáo dục khác. Hệ thống giáo dục còn bao gồm gần 800 cơ quan nghiên cứu, phòng thiết kế thí nghiệm và những xí nghiệp do nhà trường xây dựng. Tuy nhiên đã từ lâu nền giáo dục Nga đã bộc lộ những bất cập nhất định. Các cuộc điều tra dư luận xã hội cho thấy tiền đầu tư cho giáo dục tăng nhưng chất lượng giáo dục lại giảm. Ngoài ra, Tổng thống Nga Vladimir Putin cho rằng Kỳ thi quốc gia nếu được tổ chức như hiện nay có thể chỉ để tuyển được những học sinh học vẹt mà không khuyến khích các em tư duy một cách khoa học.

Đại học Quốc gia Moskva hiện đang được đánh giá là trường đại học tốt nhất tại Nga.

Tập tin:Imma9.png
Một phòng khám tại Nga năm 2008

Hiến pháp Nga đảm bảo chăm sóc y tế phổ thông, miễn phí cho mọi công dân.[188] Tuy nhiên, trên thực tế chăm sóc sức khoẻ miễn phí bị giới hạn một phần bởi chế độ propiska.[189][190] Tuy Nga có số cơ sở y tế, bệnh viện và nhân viên y tế lớn hơn hầu hết các quốc gia khác khi tính theo đầu người,[191][192] từ khi Liên xô sụp đổ sức khoẻ dân chúng Nga đã suy giảm nghiêm trọng vì những thay đổi kinh tế, xã hội và phong cách sống.[193] Ở thời điểm năm 2014, tuổi thọ trung bình tại Nga là 65.29 năm cho nam và 76.49 năm cho nữ.[194] Tổng mức tuổi thọ trung bình của người Nga là 67.7 khi sinh, kém 10.8 năm so với con số tổng thể của cả Liên minh châu Âu.[195] Yếu tố lớn nhất dẫn tới mức tuổi thọ khá thấp của nam là tỷ lệ tử cao trong nam giới thuộc tầng lớp lao động vì những nguyên nhân có thể ngăn chặn (như, nhiễm độc rượu, stress, tai nạn giao thông, tội ác bạo lực). Tỷ lệ tử trong nam giới Nga đã tăng 60% từ năm 1991, cao hơn 4 lần của châu Âu.[196] Vì có sự khác biệt lớn giữa tuổi thọ của nam và nữ (nam giới Nga có tuổi thọ thấp hơn nhiều so với nữ do tình trạng lạm dụng rượu) và bởi hiệu ứng còn lại từ Thế chiến II, theo đó Nga có số thiệt hại nhân mạng cao hơn bất kỳ nước nào trên thế giới, sự mất cân bằng giới tính vẫn còn lại tới ngày này và có 85,9 nam trên 100 nữ.

Xe cấp cứu do hãng xe Nga GAZelle chế tạo

Bệnh tim chiếm 56.7% tổng số tử vong, với khoảng 30% liên quan tới những người đang ở độ tuổi lao động. Một cuộc nghiên cứu cho thấy rượu chịu trách nhiệm cho hơn một nửa số tử vong (52%) của người dân Nga trong độ tuổi từ 15 tới 54 từ năm 1990 tới năm 2001. Với cùng mô hình nhân khẩu này, mức tử của toàn bộ thế giới vì rượu là 4%.[197] Khoảng 16 triệu người Nga mắc các bệnh tim mạch, khiến Nga đứng hàng thứ hai thế giới, sau Ukraina, trong lĩnh vực này.[196] Các tỷ lệ tử bởi giết người, tự tử và ung thư cũng đặc biệt cao.[198] 52% nam và 15% nữ hút thuốc, hơn 260,000 nhân mạng mất đi hàng năm vì sử dụng thuốc lá.[199] HIV/AIDS, rõ ràng không tồn tại trong thời kỳ Xô viết, đã nhanh chóng lan tràn sau khi Liên xô sụp đổ, chủ yếu bởi sự gia tăng chóng mặt nạn tiêm chích ma tuý.[200] Theo các thống kê chính thức, hiện có hơn 364,000 người Nga có HIV, nhưng những chuyên gia độc lập coi con số thực lớn hơn rất nhiều.[201] Trong những nỗ lực ngày càng gia tăng để chiến đấu với căn bệnh này, chính phủ đã tăng chi tiêu vào các biện pháp kiểm soát HIV gấp 20 lần năm 2006, và ngân sách năm 2007 đã tăng gấp đôi ngân sách năm 2006.[202] Từ khi Liên xô tan rã, cũng có sự gia tăng nhanh chóng về số ca và số tử vong vì bệnh lao, và bệnh này lan đặc biệt nhanh trong cộng đồng tù nhân.[203]

Trong một nỗ lực nhằm cứu vãn cuộc khủng hoảng nhân khẩu tại Nga, chính phủ hiện đang áp dụng một số chương trình được thiết kế để gia tăng tỉ lệ sinh thu hút thêm nhiều người nhập cư. Chính phủ đã tăng gấp đôi khoản trợ cấp hàng tháng cho trẻ em và cấp khoản chi một lần 250,000 Rubles (khoảng US$10,000) cho phụ nữ sinh đứa con thứ hai từ năm 2007.[204] Năm 2007, Nga có tỉ lệ sinh lớn nhất từ khi Liên xô tan rã.[205] Phó thủ tướng thứ nhất cũng đã nói khoảng 20 tỷ Ruble (khoảng US$1 triệu) sẽ được đầu tư vào các trung tâm chăm sóc tiền sinh sản tại Nga trong năm 2008–2009. Nhập cư ngày càng được coi là cần thiết để duy trì mức độ dân số quốc gia.[206]

Do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Nga đang diễn ra kể từ năm 2014, các khoản cắt giảm lớn về chi tiêu dành cho lĩnh vực y tế đã dẫn đến sự suy giảm chất lượng dịch vụ của hệ thống y tế trên toàn liên bang. Khoảng 40% các cơ sở y tế phải cắt giảm nhân sự, trong khi một số khác phải đóng cửa. Thời gian chờ điều trị đã tăng lên, và bệnh nhân bị buộc phải trả thêm tiền cho các dịch vụ mà trước đó hoàn toàn miễn phí [207][208].

Văn hoá dân gian

[sửa | sửa mã nguồn]

Có hơn 160 nhóm dân tộc khác nhau cùng với người dân bản địa ở Nga tạo nên sự đa dạng văn hóa của quốc gia này. Bên cạnh nền văn hóa Slav Chính thống của Người Nga, còn có văn hóa Hồi giáo của người TatarBashkir, nền văn hóa mang đậm ảnh hưởng Phật giáo của các bộ tộc du mục BuryatKalmyk, những người Shaman giáo ở cực Bắc và Siberia, hay nền văn hóa của người Finno-Ugric vùng Tây Bắc của Nga và vùng sông Volga.

Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, như đồ chơi Dymkovo, tranh gỗ khokhloma, gốm sứ gzhel và tranh sơn mài tiểu họa Palekh chiếm vị trí quan trọng trong nền văn hoá dân gian Nga. Trang phục truyền thống của Nga bao gồm kaftan, kosovorotkaushanka cho nam giới, sarafankokoshnik cho nữ giới, cùng với các loại giày như laptivalenki. Quần áo của dân Cossacks từ miền Nam nước Nga bao gồm burkapapaha.

Các dân tộc ở Nga có truyền thống đặc biệt về âm nhạc dân gian. Các nhạc cụ truyền thống điển hình của Nga là gusli, balalaika, zhaleika, và garmoshka. Âm nhạc dân gian có ảnh hưởng đáng kể đến các nhà soạn nhạc cổ điển Nga, và trong thời hiện đại, nó là nguồn cảm hứng cho một số ban nhạc dân ca nổi tiếng như Melnitsa.

Người Nga cũng có nhiều truyền thống đặc sắc khác, bao gồm tắm hơi kiểu Nga hay còn gọi là banya. Nhiều truyện cổ tích và các tác phẩm sử thi của Nga đã được chuyển thể thành phim hoạt hình, hoặc các bộ phim nổi bật của những đạo diễn như Aleksandr Ptushko (với các bộ phim như Ilya Muromets, Sadko) và Aleksandr Rou (đạo diễn các phim Morozko, Vasilisa Xinh đẹp). Các nhà thơ Nga, bao gồm Pyotr YershovLeonid Filatov, đã chuyển thể các câu chuyện dân gian thành những tác phẩm thơ rất đáng chú ý, trong khi một số nhà thơ kiệt xuất khác như Alexander Pushkin thậm chí đã sáng tác ra cả những bài thơ cổ tích nguyên gốc rất phổ biến.

Ẩm thực

[sửa | sửa mã nguồn]

Ẩm thực đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội Nga. Những ảnh hưởng của phương Tây đang có tác động đáng kể đến thói quen ăn uống và khẩu vị của người dân, khi các hãng McDonald's phát triển tràn lan, và các quán cà phê theo phong cách Paris xuất hiện trên các lề phố Moskva hay St.Petersburg. Tuy nhiên, những món ăn truyền thống và các đặc sản của Nga như rượu vodka hay bánh mì "karavai" vẫn giữ nguyên tầm quan trọng của chúng trong các bữa tiệc hay lễ lớn của Nga.[209]

Vào mùa đông, nhiệt độ có thể xuống tới -20 °C tại thủ đô Moskva, vì thế, các thức ăn béo, giàu năng lượng như bánh mì, trứng, hay sữa là rất cần thiết. Ngoài ra còn có những món đặc sản đặc biệt như shchi (súp thịt bò và bắp cải) hay borshch (súp củ cải đỏ với thịt lợn). Đôi khi người ta cũng ăn khoai tây nghiền, rán vào cuối bữa hoặc bliny, một loại bánh kếp ăn kèm với mật ong hoặc trứng cá.

Ngoài thức ăn, người Nga còn có nhiều đồ uống nổi tiếng trên thế giới như rượu vodka thường được làm từ lúa mạch đen hay lúa mỳ. Đôi khi nó còn được pha thêm tiêu, dâu hay chanh. Một đồ uống nổi tiếng khác là sbiten, được làm từ mật ong và thêm một chút hương liệu khác như dâu. Chè cũng là một thứ đồ uống nổi tiếng khác. Nó là một loại đồ uống truyền thống và đôi khi cũng được uống kèm sữa.

Kiến trúc

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà thờ Thánh Vasily

Kiến trúc Nga thời trung cổ ảnh hưởng chủ yếu bởi kiến trúc Byzantine. Aristotle Fioravanti và kiến trúc sư người Ý khác đã mang xu hướng kiến trúc Phục Hưng vào Nga kể từ cuối thế kỷ 15. Những thiết kế khác của các kiến trúc sư Ý trong thời kì này như cung điện Granovitaya ở Moskva hoặc việc tu sửa và xây dựng lại Điện Kremli vào những năm 1485 – 1492 đã đem lại một sự pha trộn kiến trúc gây ấn tượng rất mạnh. Công trình xây dựng Nhà thờ chính tòa thánh Vasily năm 1555, cùng nhiều nhà thờ khác với kiểu kiến trúc nhiều mái vòm được tiếp tục thực hiện trong kế hoạch xây dựng của nước Nga ở thế kỷ thứ 16. Trong thế kỷ 17, "phong cách bốc lửa" của trang trí phát triển mạnh ở Moskva và Yaroslavl, dần dần mở đường cho phong cách baroque Naryshkin của những năm 1690. Sau những cải cách của Peter Đại đế, phong cách kiến trúc ở Nga dần chịu ảnh hương mạnh mẽ của Tây Âu.

Triều đại của Catherine Đại đế và cháu trai Alexander vào thế kỷ 18 đã chứng kiến sự hưng thịnh của kiến trúc Tân cổ điển, đáng chú ý nhất ở thủ đô Sankt Peterburg với đỉnh cao là công trình Cung điện mùa đông. Vào Thế kỷ thứ 19, lối thiết kế mang phong cách Hy Lạp phục hưng được phát triển và phong cách thiết kế kinh điển của Nga cũng được hồi sinh vào giữa thế kỷ này.

Hầu hết các công trình kiến trúc từ năm 1850 – 1917 không có nét gì nổi bật, thường là thực hiện kém chất lượng và mang sự hỗn độn của các phong cách thiết kế. Vào thế kỷ 20, những kiến trúc sư trẻ đã theo phong trào thiết kế có xu hướng tạo dựng và phong cách thiết kế kiến trúc hiện đại mới.

Tôn giáo

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ, bị phá bỏ thời Xô-viết và được xây dựng lại năm 1990–2000.
Tôn giáo tại Nga (2012)[210][211]
Chính thống giáo Nga
  
71.1%
Hồi giáo
  
6.6%
Phật giáo
  
0.5%
Vô thần
  
13%
Khác
  
6.1%

Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Phật giáoPagan giáo là các tôn giáo truyền thống của Nga, được cho là một phần của "di sản lịch sử" Nga trong một điều luật được thông qua năm 1997.[212] Những con số ước tính về các tín đồ rất khác biệt tuỳ theo các nguồn, và một số báo cáo đưa ra con số người vô thần ở Nga là 16–48% dân số.[213] Chính thống giáo Nga được coi là quốc giáo và là tôn giáo chiếm đa số ở Nga.[214] 95% xứ đạo có đăng ký thuộc Giáo hội Chính thống Nga trong khi có một số Giáo hội Chính thống nhỏ hơn. Tuy nhiên, đa số tín đồ Chính thống không thường xuyên tới nhà thờ. Tuy thế, Nhà thờ được cả các tín đồ và người vô thần kính trọng và coi nó là một biểu tượng của di sản và văn hoá Nga.[215] Các phái Cơ đốc giáo nhỏ hơn như Công giáo Rôma, và nhiều phái Tin Lành có tồn tại.

Tổ tiên của nhiều người Nga hiện nay đã chấp nhận Cơ Đốc giáo Chính thống ở thế kỷ thứ X.[215] Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2007 do Bộ ngoại giao Mỹ xuất bản đã nói rằng có xấp xỉ 100 triệu công dân coi họ là tín đồ Giáo hội Chính thống Nga.[216] Theo một cuộc điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Ý kiến Công chúng Nga, 63% người tham gia coi họ là tín đồ Chính thống Nga, 6% tự coi mình là tín đồ Hồi giáo và chưa tới 1% coi mình là tín đồ hoặc của Phật giáo, Công giáo, Tin Lành hay Do Thái giáo. 12% khác nói họ tin vào Chúa, nhưng không thực hiện bất kỳ tôn giáo nào và 16% nói họ là người vô thần.[217]

Nhà thờ gỗ trên đảo Kizhi

Ước tính Nga là nơi sinh sống của khoảng 15–20 triệu tín đồ Hồi giáo.[218][219] Tuy nhiên học giả Hồi giáo và nhà hoạt động nhân quyền Roman Silantyev đã tuyên bố rằng chỉ có 7 tới 9 triệu người theo Hồi giáo ở Nga.[220] Nga cũng có ước tính 3 tới 4 triệu người nhập cư Hồi giáo từ các nước cộng hoà hậu Liên xô.[221] Đa số tín đồ Hồi giáo sống ở vùng Volga-Ural, cũng như Bắc Kavkaz, Moskva,[222] Sankt PeterburgTây Siberia.[223] Phật giáo là truyền thống của ba vùng thuộc Liên bang Nga: Buryatia, Tuva, và Kalmykia.[224] Một số người sống ở Siberia và vùng Viễn Đông, Yakutia, Chukotka.. thực hiện các nghi thức Shaman, thuyết phiếm thần cùng với các tôn giáo chính. Việc tham gia tôn giáo chủ yếu theo sắc tộc. Đại đa số người Slav theo Cơ Đốc giáo Chính thống. Những người nói tiếng Turk chủ yếu là tín đồ Hồi giáo, dù một số nhóm Turk tại Nga không theo.[225]

Dưới thời Xô Viết, chính phủ đã thực hiện chính sách bài trừ tôn giáo [226] và cùng với đó cố gắng truyền bá chủ nghĩa vô thần.[227][228] Nhà nước công khai bôi nhọ các tôn giáo cũng như các tín đồ của họ, đồng thời nỗ lực tuyên truyền chủ nghĩa vô thần tại các trường học.[229]

Chủ nghĩa vô thần nhà nước ở Liên Xô được biết đến trong tiếng Nga là gosateizm,[226] được dựa trên hệ tư tưởng của chủ nghĩa Marx-Lenin.Chủ nghĩa Marx-Lenin đã luôn ủng hộ việc kiểm soát, đàn áp và loại bỏ tôn giáo khỏi đời sống xã hội. Trong vòng một năm sau cuộc cách mạng tháng Mười, nhà nước đã chiếm đoạt tất cả tài sản của các nhà thờ, thậm chí chiếm đoạt chính các nhà thờ, và trong giai đoạn từ 1922 đến 1926, 28 giám mục Chính thống Nga và hơn 1.200 linh mục đã bị giết hại [230]

Theo một điều tra gần đây của Trung tâm nghiên cứu Pew Research Center vào năm 2015, 71% dân số Nga tự xưng là tín đồ Chính thống giáo Nga, 15% là những người vô thần, bất khả tri và những người không theo một tôn giáo cụ thể nào. Hồi giáo chiếm 10%, tín đồ các phái Kitô hữu khác chiếm 2%, trong khi 1% thuộc về các tôn giáo khác.[231] Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng trong thời kỳ Xô viết, sự đàn áp tôn giáo của chính phủ đã lan rộng, vào năm 1991 chỉ có 37% dân số Nga là tín đồ Chính thống giáo. Sau khi Liên Xô tan rã, tỉ lệ tín đồ Chính thống giáo ở Nga đã tăng lên đáng kể và năm 2015, khoảng 71% dân số Nga tuyên bố mình là tín đồ Chính thống giáo Nga, trong khi tỷ lệ người không thực hành tôn giáo đã giảm từ 61% trong năm 1991 xuống còn 18% trong năm 2008.[232]

Âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]
Nhà soạn nhạc lừng danh Tchaikovsky

Nhạc cổ điển phát triển mạnh ở Nga vào thế kỷ 19. Nhà soạn nhạc cổ điển vĩ đại nhất của Nga là Pyotr Ilyich Tchaikovsky. Sang đến thế kỷ 20, một số nhà soạn nhạc nổi tiếng của Nga là Alexander Scriabin, Igor Stravinsky, Sergei Prokofiev, Dmitri ShostakovichAlfred Schnittke.

Nhạc viện Nga đã cho ra nhiều thế hệ nghệ sĩ độc tấu nổi tiếng. Trong số những người nổi tiếng nhất là các nghệ sĩ violin Jascha Heifetz, David Oistrakh, Leonid Kogan, Gidon KremerMaxim Vengerov; các nghệ sĩ cello Mstislav Rostropovich, Natalia Gutman; các nghệ sĩ dương cầm Vladimir Horowitz, Sviatoslav Richter, Emil Gilels, Vladimir SofronitskyEvgeny Kissin; các ca sĩ Fyodor Shalyapin, Mark Reizen, Elena Obraztsova, Tamara Sinyavskaya, Nina Dorliak, Galina Vishnevskaya, Anna NetrebkoDmitry Hvorostovsky.;

Nửa sau thế kỷ 19, trung tâm thế giới Ballet chuyển từ Pháp sang Nga. Một trong những người tạo ra kỷ nguyên vàng cho Trường Ballet Hoàng gia Nga và đóng vai trò lớn trong việc biến St. Petersburg trở thành kinh đô của ballet thế giới là Marius Petipa. Đoàn Ballet Bolshoi tại Moskva và Mariinsky Ballet tại St Petersburg là nơi đào tạo ra những diễn viên balê vĩ đại nhất của mọi thời đại, trong đó nổi bật lên là hai cái tên Anna PavlovaVaslav Nijinsky, ngoài ra thời Xô viết còn có một số nghệ sỹ ballet nổi tiếng như Galina Ulanova, Maya Plisetskaya, Rudolf Nureyev, và Mikhail Baryshnikov.

Nhạc rock hiện đại của Nga chịu ảnh hưởng từ cả nhạc rock and rollheavy metal của phương Tây cũng như các ban nhạc truyền thống thời kỳ Xô Viết, như Vladimir Vysotsky và Bulat Okudzhava [233]. Các nhóm nhạc rock nổi tiếng của Nga bao gồm Mashina Vremeni, DDT, Aquarium, Alisa, Kino, Kipelov, Nautilus Pompilius, Aria, Grazhdanskaya Oborona, SpleanKorol i Shut. Nhạc pop hiện đại của Nga cũng xuất hiện một số gương mặt đạt được danh tiếng nhất định ở tầm quốc tế chẳng hạn như t.A.T.u, Nu VirgosVitas.

Văn học

[sửa | sửa mã nguồn]
Alexander Pushkin

Thế kỷ 18 được coi là thời kỳ Khai sáng của văn học Nga, sự phát triển của văn học Nga đã được đặt nền móng trong giai đoạn này bởi các tác phẩm của Mikhail LomonosovDenis Fonvizin. Vào đầu thế kỷ 19 là thời điểm xuất hiện một số nhà văn, nhà thơ được coi là vĩ đại nhất trong lịch sử Nga. Giai đoạn này còn được gọi là thời hoàng kim của Văn học Nga, mở đầu với Alexander Pushkin, người được coi là đã sáng lập ra ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và thường được ca tụng là "Shakespeare của nước Nga" [234]. Tiếp theo là thơ của Mikhail LermontovNikolay Nekrasov, kịch của Alexander OstrovskyAnton Chekhov, và văn xuôi của Nikolai GogolIvan Turgenev. Lev TolstoyFyodor Dostoyevsky đã được các nhà phê bình văn học ca ngợi là những tiểu thuyết gia vĩ đại nhất mọi thời đại[235][236].

Đến những năm 1880, truyện ngắn và thơ trở thành thể loại thống trị. Các tác giả hàng đầu của thời đại này bao gồm các nhà thơ như Valery Bryusov, Vyacheslav Ivanov, Alexander Blok, Nikolay GumilevAnna Akhmatova, và các tiểu thuyết gia như Leonid Andreyev, Ivan BuninMaxim Gorky.

Sau cuộc Cách mạng Nga năm 1917, nhiều nhà văntriết gia nổi tiếng đã rời bỏ đất nước, bao gồm Bunin, Vladimir Nabokov và Nikolay Berdyayev, trong khi một thế hệ các tác giả tài năng mới tham gia cùng nhau trong nỗ lực tạo ra một nền văn hóa riêng biệt. Trong những năm 1930, kiểm duyệt văn học đã được thắt chặt phù hợp với chính sách chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa. Vào cuối những năm 1950, các hạn chế về văn học đã được nới lỏng, và vào những năm 19701980, các nhà văn dần thoát khỏi việc bị trói buộc bởi nhà nước trong sáng tác văn học. Các tác giả hàng đầu của thời đại Xô viết bao gồm các tiểu thuyết gia Yevgeny Zamyatin (di cư), Mikhail Bulgakov (bị kiểm duyệt) và Mikhail Sholokhov, cùng với các nhà thơ Vladimir Mayakovsky, Yevgeny YevtushenkoAndrey Voznesensky. Aleksandr Isayevich Solzhenitsynnhà văn nổi tiếng lên án chế độ khủng bố Stalin qua tác phẩm GULAG quần đảo địa ngục từng đoạt giải thưởng Nobel Văn học.

Điện ảnh và truyền thông

[sửa | sửa mã nguồn]

Các phim chiếu rạp của Nga và sau đó là Liên Xô bùng nổ mạnh mẽ giai đoạn sau năm 1917, kết quả là đã cho ra đời một số bộ phim nổi tiếng thế giới như Chiến hạm Potemkin của Sergei Eisenstein. Eisenstein là một sinh viên của nhà làm phim và nhà lý thuyết Lev Kuleshov, người đã phát triển lý thuyết về dựng phim và biên tập phim tại trường điện ảnh đầu tiên trên thế giới, Viện điện ảnh All-Union. Dưới thời Stalin, chính sách chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa của nhà nước đã phần nào hạn chế sự sáng tạo của các nhà làm phim; tuy nhiên, nhiều bộ phim của Liên Xô theo phong cách này đã thành công về mặt nghệ thuật, bao gồm Chapaev, Khi đàn sếu bay quaBài ca người lính.

Những năm 1960 và 1970 chứng kiến nhiều phong cách nghệ thuật khác nhau trong điện ảnh Liên Xô. Các bộ phim hài của Eldar RyazanovLeonid Gaidai trong thời gian đó rất phổ biến. Năm 1961–68, Sergey Bondarchuk đạo diễn bộ phim Chiến tranh và Hòa bình dựa trên cuốn tiểu thuyết của Leo Tolstoy và đã đoạt giải Oscar năm 1968, đây cũng là bộ phim đắt nhất từng được sản xuất tại Liên Xô [237].

Hoạt hình của Nga có niên đại từ thời Đế quốc Nga. Trong thời kỳ Xô viết, xưởng phim Soyuzmultfilm là nhà sản xuất phim hoạt hình lớn nhất. Những đạo diễn nổi tiếng của Nga trong thể loại phim họa hình là Ivan Ivanov-Vano, Fyodor KhitrukAleksandr Tatarsky. Nhiều nhân vật hoạt hình như Cheburashka (được coi là gấu Pooh của Nga), SóiThỏ trong Hãy đợi đấy! (được coi là Tom và Jerry của Nga), là những hình tượng mang tính biểu tượng ở Nga và nhiều nước xung quanh.

Cuối những năm 1980 và 1990 là một thời kỳ khủng hoảng của điện ảnh và hoạt hình Nga. Mặc dù các nhà làm phim Nga đã được tự do thể hiện tính sáng tạo của bản thân, các khoản trợ cấp của nhà nước đã giảm đáng kể, dẫn đến ít phim được sản xuất hơn. Những năm đầu của thế kỷ 21 đã chứng kiến lượng người xem tăng lên và sự thịnh vượng trở lại của ngành công nghiệp điện ảnh khi nền kinh tế đã có sự hồi phục.

Trong khi có rất ít đài phát thanh hoặc các kênh truyền hình trong thời Liên Xô, từ hai thập kỷ qua, nhiều đài phát thanh và kênh truyền hình do cả nhà nước và tư nhân sở hữu đã xuất hiện. Kiểm duyệt và tự do truyền thông ở Nga luôn là chủ đề chính của truyền thông Nga.

Thể thao

[sửa | sửa mã nguồn]
Khai mạc Thế vận hội Mùa đông 2014, kỳ thế vận hội mà Nga là chủ nhà.
Tay vợt Maria Sharapova.

Các vận động viên thể thao của Liên Xô và sau đó là của Nga luôn nằm trong top 4 nước đạt nhiều huy chương vàng nhất tại tất cả các kỳ Thế vận hội mùa hè mà họ từng tham dự. Nga (tính cả Liên Xô) đã 2 lần đăng cai Thế vận hội. Thế vận hội mùa hè 1980 đã được tổ chức tại Moskva trong khi Thế vận hội mùa đông 2014 được tổ chức tại Sochi.

Doping là một vấn đề rất lớn và hết sức tiêu cực của thể thao Nga. Tổng cộng đã có 51 huy chương vàng của các vận động viên Nga bị IOC tước đoạt do sử dụng doping, nhiều nhất trong số tất cả các nước trên thế giới. Từ năm 2011 đến năm 2015, hơn 1000 vận động viên của Nga trong nhiều môn thể thao khác nhau, bao gồm cả các môn mùa hè, mùa đông và các môn thể thao Paralympic (dành cho người khuyết tật), được hưởng lợi từ sự che đậy của nhà nước đối với hành vi sử dụng doping [238][239][240][241][242].

Khúc côn cầu trên băng là môn thể thao thế mạnh của Nga. Mặc dù bộ môn này chỉ được giới thiệu trong thời kỳ Xô viết, đội tuyển khúc côn cầu trên băng của Liên Xô đã giành chiến thắng tại hầu hết các kì Thế vận hội và các giải vô địch thế giới mà họ tham dự.

Bóng đá là môn thể thao phổ biến nhất ở nước Nga ngày nay. Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô đã trở thành nhà vô địch châu Âu đầu tiên khi lên ngôi tại Euro 1960. Đội tuyển bóng đá quốc gia Liên Xô cũng đã lọt vào chung kết Euro 1988 nhưng đã để thua đội tuyển Hà Lan với tỉ số 0-2. Xuất hiện trong bốn kỳ World Cup liên tiếp từ năm 1958 đến 1970, Lev Yashin của đội tuyển bóng đá Liên Xô được coi là một trong những thủ môn xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá, ông cũng nằm trong Đội hình xuất sắc nhất lịch sử World Cup của FIFA [243]. Liên Xô giành HCV môn bóng đá nam tại các kỳ thế vận hội năm 1956 và 1988. Các câu lạc bộ bóng đá Nga CSKA MoskvaZenit Sankt Peterburg đã giành cúp UEFA vào năm 2005 và 2008. Một số CLB bóng đá nổi tiếng khác của Nga gồm có Spartak Moskva, Lokomotiv Moskva, Dynamo MoskvaRubin Kazan. Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga đã lọt vào bán kết Euro 2008 trước khi thua nhà vô địch Tây Ban Nha với tỉ số 0–3.

Kể từ khi kết thúc thời Xô Viết, quần vợt đã trở nên phổ biến tại Nga và Nga đã sản sinh một số tay vợt nổi tiếng, chẳng hạn Maria Sharapova. Trong võ thuật, Nga là nước khai sinh ra môn thể thao Sambo cũng như là quê hương của nhiều võ sĩ nổi tiếng như Fedor Emelianenko. Cờ vua là một trò tiêu khiển phổ biến rộng rãi ở Nga; một số kỳ thủ Nga nổi tiếng là Mikhail Botvinnik, Garry Kasparov.

Nga là nước chủ nhà World Cup 2018. Đây là kỳ World Cup bóng đá đầu tiên được tổ chức ở một quốc gia Đông Âu. Đội tuyển bóng đá quốc gia Nga đã lọt được vào vòng tứ kết ở giải đấu này.

Ngày lễ

[sửa | sửa mã nguồn]

Các biểu tượng

[sửa | sửa mã nguồn]
Búp bê Matryoshka là một biểu tượng rất nổi tiếng của Nga

Biểu tượng nhà nước của Nga là một con đại bàng hai đầu Byzantine kết hợp với hình ảnh của Thánh George, đây là biểu tượng xuất hiện trên quốc huy của Nga. Quốc kỳ của Nga là một lá cờ ba sắc được chia thành ba hình chữ nhật có kích thước bằng nhau: màu trắng ở trên cùng, màu xanh ở giữa, và màu đỏ ở dưới cùng. Quốc ca Nga có cùng giai điệu với Quốc ca của Liên Xô, mặc dù lời bài hát có sự khác biệt. Khẩu hiệu quốc gia có từ thời Đế quốc Nga là Thiên Chúa ở bên chúng ta và khẩu hiệu quốc gia từ thời Liên Xô là Vô sản toàn thế giới, đoàn kết lại! hiện không còn được sử dụng nữa và vẫn chưa có khẩu hiệu nào mới để thay thế. Biểu tượng búa liềmquốc huy Liên Xô vẫn được nhìn thấy ở một số thành phố của Nga, thường là ở các công trình kiến trúc cũ. Biểu tượng ngôi sao đỏ từ thời Xô viết cũng dễ bắt gặp, thường là xuất hiện trên các thiết bị quân sự hoặc các đài tưởng niệm chiến tranh. Biểu ngữ đỏ tiếp tục được vinh danh, đặc biệt là Biểu ngữ Chiến thắng năm 1945.

Búp bê Matryoshka là một biểu tượng nổi tiếng của Nga. Điện Kremlinhà thờ thánh VasilyMoskva là những biểu tượng kiến trúc của Nga. Cheburashka là linh vật của các đội Olympic quốc gia Nga. Thánh Maria, Thánh Nikolai, Thánh Andrei, Thánh Georgiy, Thánh Alexander Nevsky, Thánh Sergius xứ RadonezhThánh Seraphim xứ Sarov là những vị thánh bảo trợ của Nga. Hoa cúc (chamomile) là quốc hoa, còn cây bạch dương là quốc cây của Nga. Gấu Nga là quốc thú và là động vật biểu tượng của nước Nga, mặc dù trên thực tế biểu tượng này được bắt nguồn từ phương Tây và mới chỉ được người Nga chấp nhận gần đây. Nhân cách hóa dân tộc Nga là Mẹ Nga (Mother Russia), tương đương với Uncle Sam của Hoa Kỳ.

Các vấn đề xã hội

[sửa | sửa mã nguồn]

Tình trạng tội phạm

[sửa | sửa mã nguồn]

Nước Nga là một trong những nước có làn sóng tội phạm cao trên thế giới. Tỷ lệ giết người ở Nga cao gấp bốn lần so với ở Mỹ.[244] Vào năm 2001, 33.500 người đã bị giết hại. Tổng cộng, vào năm 2011, có hơn 3 triệu tội phạm được báo cáo. Từ trộm cắp thông thường đến tham nhũng, cướpbuôn lậu đã khiến làn sóng tội phạm ngày càng tăng. Mặc dù chính phủ Nga đã cam kết mạnh tay với tội phạm, tuy nhiên hành động này vẫn chưa đem lại hiệu quả gì lớn. Theo thống kê của Văn phòng Tội phạm và Ma túy của Liên Hợp Quốc, tỉ lệ giết người cố ý ở Nga vào năm 2016 là 10.82/100.000, cao gấp đôi so với Hoa Kỳ (5.8/100.000) và cao hơn rất nhiều so với tỉ lệ trung bình của toàn thế giới (6.2/100.000) [245]

Hàng giả

[sửa | sửa mã nguồn]

Hàng giả cũng là một vấn đề khác gây đau đầu cho các nhà chức trách. Chính phủ Nga ước tính đến 90% hàng hóa bán lưu thông đều không rõ nguồn gốc rõ ràng. Các thiết bị điện tử chủ yếu được nhập khẩu bất hợp pháp từ Đông Nam Á còn đồ chơi nhập từ Trung Quốc. Còn thực phẩm, thuốc, quần áobăng đĩa thường có nguồn gốc nội địa. Thuốc giảrượu giả khiến người tiêu dùng bị đe dọa nghiêm trọng nhất. Hằng năm, hàng ngàn người Nga thiệt mạng do uống phải các chất hóa học chết người làm giả thành rượu vodka.[246]

Khoảng cách giàu - nghèo

[sửa | sửa mã nguồn]

Tình trạng cách biệt giàu nghèo đang tăng lên. Nhiều người Nga sống trong những căn nhà xây từ thời Xô Viết nay đã xuống cấp. Một điều tra vào năm ngoái của Hiệp hội các kỹ sư Nga cho biết: 20% người ở thành phố không có nước nóng, 12% không có hệ thống sưởi và phải dùng lò sưởi thủ công. Ở các làng quê, tỷ lệ này còn cao hơn. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB), hiện nay có hơn 15 triệu người Nga (khoảng 11% dân số) sống dưới mức 150 USD/người/tháng.[247]

Tham nhũng

[sửa | sửa mã nguồn]

Tham nhũng ở Nga cũng được coi là một vấn đề nghiêm trọng [248] tác động đến mọi khía cạnh của cuộc sống, bao gồm cả hành chính công,[249][250] thực thi pháp luật [251], chăm sóc sức khỏe [252]giáo dục [253]. Theo bảng xếp hạng năm 2016 về Chỉ số nhận thức tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế, Nga xếp thứ 131 trên tổng số 176 quốc gia với số điểm là 29 [254]. Theo Ngân hàng Thế giới, tham nhũng gây thiệt hại lên tới 50% tổng GDP của Nga [255].

Báo động tình trạng tự tử

[sửa | sửa mã nguồn]

Nga hiện là một trong những nước có tỉ lệ tự tử cao nhất thế giới. Theo thống kê của WHO vào năm 2016, tỉ lệ tự tử ở Nga đứng thứ 3 trên toàn cầu (chỉ sau 2 nước là LesothoGuyana), với 26,5 vụ trên 100.000 người [256]. Năm 2012, tỷ lệ tự tử ở tuổi vị thành niên tại Nga cao gấp ba lần mức trung bình của thế giới [257].

Khủng bố, đe doạ an ninh

[sửa | sửa mã nguồn]

Tính từ năm 2008 đến năm 2016, đã có 1.088 người chết trong các vụ khủng bố tại Nga [258][259], gấp 5 lần so với số lượng người chết trong các vụ khủng bố tại Mỹ cùng khoảng thời gian (235 người chết) [260][261].

Một số vụ khủng bố đẫm máu tại Nga kể từ năm 1999 [262]

  • Tháng 9-1999, Các vụ đánh bom ở những tòa chung cư giết gần 300 người tại Moskva, BuynakskVolgodonsk trong khoảng thời gian từ ngày 4-9 tới 16-9. Các phần tử cực đoan Chechnya được cho đứng sau những vụ này.
  • Tháng 10-2002, Nhà hát Dubrovka tại Moskva bị 40 tới 50 tay súng bao vây. Quân đội Nga vào cuộc, kết quả ít nhất 170 người chết bao gồm 130 trong số gần 1.000 con tin.
  • Tháng 2-2004, Một vụ đánh bom liều chết ở tàu điện ngầm tại Moskva làm 41 người chết và hơn 100 người bị thương.
  • Tháng 5-2004, vụ tấn công liều chết ở sân vận động Grozny, Cộng hòa Chechnya thuộc Nga, đã giết 24 người trong đó có Akhmad Kadyrov, cha của lãnh đạo Chechnya Ramzan Kadyrov.
  • Tháng 8-2004, thêm một vụ khác tại sân bay Domodedovo. Cả 90 hành khách trên chuyến bay bị tấn công đã thiệt mạng. Cơ quan chức năng sau đó phát hiện hai người phụ nữ thực hiện vụ tấn công liều chết ấy đã hối lộ để lên máy bay chỉ với 1.000 rúp, tương đương 34 USD vào lúc đó. Và vài ngày sau, một vụ tấn công khác ở tàu điện ngầm tại Moskva khiến 10 người thiệt mạng.
  • Tháng 9-2004 được xem là một trong những cuộc tấn công gây sốc nhất lịch sử an ninh Nga đương đại, khi các tay súng đột nhập vào trường học ở Beslan, thuộc tỉnh Bắc Ossetia. Những tay súng bắt học sinh, giáo viên và phụ huynh làm con tin. Sau nhiều ngày bế tắc, quân đội Nga tràn vào trường học dẫn tới cái chết của hơn 300 người, trong đó có nhiều trẻ em.
  • Tháng 10-2005, các tay súng Hồi giáo thực hiện cuộc tấn công tại thành phố Nalchik, lãnh thổ Kabardino-Balkaria thuộc Nga, gần Chechnya. Cuộc giao tranh tại tòa nhà của lực lượng an ninh Nga làm hơn 100 người chết, bao gồm thường dân.
  • Tháng 11-2009, tuyến tàu cao tốc từ Moskva đi St Petersburg bị đánh bom khiến 28 người thiệt mạng và 130 người bị thương. Cảnh sát bắt giam 10 người, trong đó có chín người thuộc một gia đình ở khu vực Cộng hòa Ingushetia tự trị, ở Bắc Kavkaz.
  • Tháng 3-2010, hai vụ đánh bom liều chết ở tàu điện ngầm tại thủ đô Moskva làm 40 người thiệt mạng. Quan chức Nga mô tả đó là vụ tấn công khủng bố chết chóc và tinh vi nhất ở Nga trong vòng 6 năm. Đặc biệt, một trong các địa điểm bị nhắm tới nằm sát tòa nhà của Tổng cục An ninh Liên bang Nga (FSB).
  • Tháng 1-2011, vụ đánh bom liều chết ở sân bay Domodedovo (Moskva) giết chết 37 người và làm 172 người bị thương. Doku Umarov, lãnh đạo nhóm Hồi giáo cực đoan Chechnya có tên Phong trào Tiểu vương quốc Kavkaz nhận trách nhiệm.
  • Tháng 12/2013. hai vụ đánh bom trong một ngày nhằm vào hệ thống giao thông công cộng ở thành phố Volgograd làm tổng cộng 34 người thiệt mạng. Vụ việc này xảy ra chỉ 2 tháng sau một cuộc đánh bom liều chết khác cũng ở Volgograd trước thềm Thế vận hội Mùa đông năm 2014.

Tương lai

[sửa | sửa mã nguồn]

Nga và Belarus đang đàm phán để thống nhất thành một nhà nước liên bang Nga – Belarus, việc đàm phán đã được bắt đầu vào năm 1997 và vẫn tiếp tục cho đến bây giờ.[263]

  1. ^ Liên Xô Tối cao Nga Xô viết đã phê chuẩn hiệp định vào ngày 12 tháng 12, tố cáo hiệp ước 1922.
  2. ^ Vào ngày 25 tháng 12, Nga Xô viết được đổi tên thành Liên bang Nga và ngày hôm sau Xô viết Tối cao Liên Xô đã phê chuẩn hiệp định, giải thể Liên Xô một cách hiệu quả.
  3. ^ Khi bao gồm Cộng hòa KrymSevastopol, tổng diện tích của Nga tăng lên 17.125.191 km2 (6.612.073 dặm vuông Anh)[10]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “ВПН-2010”. perepis-2010.ru. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2012.
  2. ^ “Russia – The World Factbook”. The World Factbook. Central Intelligence Agency. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2021. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2022.
  3. ^ Prof. Dr. Martin Krzywdzinski (26 tháng 1 năm 2020). Consent and Control in the Authoritarian Workplace: Russia and China Compared. Oxford University Press. tr. 252–. ISBN 978-0-19-252902-2. OCLC 1026492383. officially a democratic state with the rule of law, in practice an authoritarian dictatorship
  4. ^ Fischer, Sabine (2022). “Russia on the road to dictatorship”. SWP Comment. Stiftung Wissenschaft und Politik (SWP), German Institute for International and Security Affairs. doi:10.18449/2022C30. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2024.
  5. ^ “Russia: Freedom in the World 2023 Country Report”. Freedom House. 20 tháng 7 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2023.
  6. ^ Kuzio, Taras (2016). “Nationalism and authoritarianism in Russia”. Communist and Post-Communist Studies. Nhà xuất bản Đại học California. 49 (1): 1–11. doi:10.1016/j.postcomstud.2015.12.002. JSTOR 48610429.
  7. ^ Указ Президента РФ "О праздновании 1150-летия зарождения российской государственности" [Presidential Decree "On celebrating the 1150th anniversary of Russian statehood"]. www.1150russia.ru (bằng tiếng Nga). Комитет культуры Новгородской области (Novgorod Region Culture Committee). ngày 3 tháng 3 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2016.
  8. ^ 25 tháng 10, lịch cũ
  9. ^ “World Statistics Pocketbook 2016 edition” (PDF). United Nations Department of Economic and Social Affairs. Statistics Division. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2018.
  10. ^ “Thông tin về tính khả dụng và phân phối đất đai tại Liên bang Nga kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2017 (theo các chủ đề liên bang của Nga” Сведения о наличии и распределении земель в Российской Федерации на ngày 1 tháng 1 năm 2017 (в разрезе субъектов Российской Федерации). Rosreestr. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2022.
  11. ^ “The Russian federation: general characteristics”. Federal State Statistics Service. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2008.
  12. ^ a b c d “World Economic Outlook Database, April 2021”. IMF.org. International Monetary Fund. Truy cập ngày 17 tháng 4 năm 2020.
  13. ^ “GINI index (World Bank estimate) – Russian Federation”. World Bank. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2020.
  14. ^ “Human Development Report 2020” (PDF) (bằng tiếng Anh). United Nations Development Programme. ngày 15 tháng 12 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2020.
  15. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 1). Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  16. ^ “The CIA World Fact Book, "Russia". Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2009.
  17. ^ a b “Russia”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2008.
  18. ^ Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007. "Russia". Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  19. ^ “First Post; Beware Russia Energy Superpower, ngày 12 tháng 10 năm 2006”. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2009.
  20. ^ “CNN, "Russia; A superpower rises again" by Simon Hooper. Tháng 12, 2006”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2011.
  21. ^ CNN; "Eye on Russia: Russia's resurgence" by Matthew Chance June 2007 [1][liên kết hỏng]
  22. ^ Library of Congress. “Topography and drainage”. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  23. ^ “Contemporary Soviet Military Affairs”. Google Books. Truy cập 24 tháng 9 năm 2015.
  24. ^ Weinberg, G.L. (1995). A World at Arms: A Global History of World War II. Cambridge University Press. tr. 264. ISBN 0521558794.
  25. ^ Osbourne, Andrew, World leaders gather as Russia remembers. The Age
  26. ^ Rozhnov, Konstantin, Who won World War II?. BBC. Russian historian Valentin Falin
  27. ^ a b “Country Profile: Russia”. Foreign & Commonwealth Office of the United Kingdom. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  28. ^ “Status of Nuclear Powers and Their Nuclear Capabilities”. Federation of American Scientists. tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2014.
  29. ^ “Online Etymology Dictionary”. Etymonline.com. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2011.
  30. ^ “Rus – definition of Rus by the Free Online Dictionary, Thesaurus and Encyclopedia”. Thefreedictionary.com. Truy cập ngày 2 tháng 11 năm 2011.
  31. ^ Milner-Gulland, R. R. (1997). The Russians: The People of Europe. Blackwell Publishing. tr. 1–4. ISBN 0-631-21849-1.
  32. ^ “《俄罗斯国家名称变迁考》,郭文深著,江淮论坛2010年3期”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 2 năm 2014.
  33. ^ “Kievan Rus' and Mongol Periods”. Đại học bang Sam Houston. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2007.
  34. ^ Kievan Rus' and Mongol Periods Lưu trữ 2007-09-27 tại Wayback Machine, trích đoạn từ Glenn E. Curtis (chủ biên), Russia: A Country Study, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, 1998. ISBN 0-16-061212-8.
  35. ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 36
  36. ^ Christopher Duffy, Borodino and the War of 1812, trang 46
  37. ^ Christopher Duffy, The military experience in the age of reason, trang 41
  38. ^ Xem Jacob Walkin, The Rise of Democracy in Pre-Revolutionary Russia: Political and Social Institutions under the Last Three Czars, Praeger, 1962.
  39. ^ CIAO - Atlas - Russia[liên kết hỏng]
  40. ^ Revolutions and Civil War, trích đoạn từ Glenn E. Curtis (chủ biên), Russia: A Country Study, Bộ quốc phòng Hoa Kỳ, 1998. ISBN 0-16-061212-8.
  41. ^ Xem Donald A. Filzer, Soviet Workers and the Collapse of Perestroika: The Soviet Labour Process and Gorbachev's Reforms, 1985–1991, Nhà in Đại học Cambridge, 1994. ISBN 0-521-45292-9.
  42. ^ Xem, chẳng hạn, Country Profile for the Russian Federation, của Bộ Ngoại giao Anh. Tra cứu ngày 21-7-2007.
  43. ^ [2]Lưu trữ 2012-12-19 tại Wayback Machine Famine in Russia: the hidden horrors of 1921, International Committee of the Red Cross
  44. ^ “World War II”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2008.
  45. ^ “The Allies' first decisive successes > Stalingrad and the German retreat, summer 1942–February 1943”. Encyclopedia Britannica. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2008.
  46. ^ Erlikman, V. (2004). Poteri narodonaseleniia v XX veke: spravochnik. Moskva: Russkai︠a︡ panorama. ISBN 5931651071. Note: Estimates for Soviet World War II casualties vary between sources.
  47. ^ “Reconstruction and Cold War”. Library of Congress. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  48. ^ “Great Escapes from the Gulag”. TIME. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2008.
  49. ^ “1990 CIA World Factbook”. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2008.
  50. ^ “Russia Unforeseen Results of Reform”. The Library of Congress Country Studies; CIA World Factbook. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2008.
  51. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 80, §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  52. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 110, §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  53. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 94). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  54. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 19, §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  55. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 120, §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  56. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 123, §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  57. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 81, §3). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  58. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 95, §3). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  59. ^ Based on actual count of countries listed “Diplomatic and consular missions of Russia”. Ministry of Foreign Affairs of Russia. Truy cập ngày 12 tháng 7 năm 2009.. Only those listed explicitly as "Embassy of Russia" are included in the embassy count.
  60. ^ Kosachev. K. “Russian Foreign Policy Vertical”. Russia In Global Affairs. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  61. ^ (tiếng Nga) “Interview of official Ambassador of Russian Foreign Ministry on relations with the EU”. RIA Novosti. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2008.
  62. ^ “NATO-Russia relations”. NATO. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  63. ^ “Nga – Trung Quốc: Đối tác thiếu bền vững”. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2012.
  64. ^ Nga điều chỉnh chiến lược đối ngoại theo hướng nào? - Nga dieu chinh chien luoc doi ngoai theo huong nao? - VOV.VN
  65. ^ Rosefielde, Steven (2005). Russia in the 21st Century The Prodigal Superpower. Cambridge University Press. ISBN 978-0-521-83678-4.
  66. ^ Atwell, Kyle (ngày 25 tháng 8 năm 2008). “Is Russia a Superpower? Cold War II?”. Atlantic Review. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2016.
  67. ^ “What's Looming in Ukraine Is more Threatening than Georgia”. Der Spiegel. ngày 16 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2016. Nikonov: Russia is not a superpower and won't be one for the foreseeable future. But Russia is a great power. It was one, it is one and it will continue to be one.
  68. ^ “Russia is a Superpower CNN, US Senators telling the truth”. CNN News. ngày 30 tháng 8 năm 2008.
  69. ^ Venezuela's President Hugo Chávez recognizes independence of breakaway Georgia republics by Megan K. Stack. ngày 9 tháng 9 năm 2009
  70. ^ Netanyahu declares Russia as superpower Russia Today News ngày 15 tháng 2 năm 2010
  71. ^ “Amnesty International report on Russia”. Amnesty International. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2010.
  72. ^ “Annual report Russia”. Freedom House. ngày 10 tháng 5 năm 2004. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2010.
  73. ^ a b Most Russians Say Gay Sex Is 'Reprehensible' after 20-Year Spike in Homophobia, Poll Shows
  74. ^ “Gay in Putin's Moscow: why the city is pinker than you think”. The Guardian. ngày 13 tháng 6 năm 2015.
  75. ^ “Inside the gay club scene in St Petersburg, Russia”. Daily Xtra. ngày 31 tháng 5 năm 2014.
  76. ^ “Cho phép hôn nhân đồng giới: Âm mưu chính trị khủng khiếp nhắm vào Nga - VTC News”. Báo điện tử VTC News. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2015. Truy cập 4 tháng 2 năm 2018.
  77. ^ “Nga xem xét luật chống người đồng tính”. Tuổi Trẻ Online. Truy cập 4 tháng 2 năm 2018.
  78. ^ “Russia will deport foreigners for homosexual propaganda; Duma passes bill 436”. Truy cập 4 tháng 2 năm 2018.
  79. ^ “Putin: Europeans Are Dying Out Because They Allow Same-Sex Couples To Marry”. Truy cập 4 tháng 2 năm 2018.
  80. ^ “United Russia activists create 'flag for straights' to oppose 'gay fever'. RT International. Truy cập 4 tháng 2 năm 2018.
  81. ^ “Chapter 2—Investing In Russian Defense Conversion: Obstacles and Opportunities”. Federation of American Scientists. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  82. ^ “Status of Nuclear Powers and Their Nuclear Capabilities”. Federation of American Scientists. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  83. ^ Công nghiệp Quốc phòng Nga đã lạc hậu? - VTC News
  84. ^ “Russia arms exports could exceed $7 bln in 2007 – Ivanov”. RIA Novosti. Truy cập ngày 27 tháng 1 năm 2008.
  85. ^ “Big rise in Russian military spending raises fears of new challenge to west”. Guardian. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2008.
  86. ^ Pukhov, R. (2009). “Serdyukov Cleans Up the Arbat”. Moscow Defense Brief. Centre for Analysis of Strategies and Technologies (#1 (15) / 2009). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2009.
  87. ^ Barabanov, M (ngày 16 tháng 2 năm 2009). “The Army's Chief Destroyer”. The Moscow Times. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2009.
  88. ^ Kazak, Sergey. “Russia to Up Nuclear Weapons Spending 50% by 2016”. RIA Novosti. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2014.
  89. ^ “Địa lý nước NGA”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập 30 tháng 4 năm 2015.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  90. ^ Nga bớt 2 múi giờ để phát triển kinh tế
  91. ^ a b “Climate”. Library Of Congress. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  92. ^ Drozdov, V. A. (1992). “Ecological and Geographical Characteristics of the Coastal Zone of the Black Sea”. GeoJournal. 27.2, pp. 169–178: Springer Netherlands. 27: 169. doi:10.1007/BF00717701.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  93. ^ Library of Congress. “Topography and Drainage”. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  94. ^ Walsh, NP. “It's Europe's lungs and home to many rare species. But to Russia it's £100bn of wood”. Guardian (UK). Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2007.
  95. ^ “list of animals of Red Data Book of Russian Federation (ngày 1 tháng 11 năm 1997)”. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2009.
  96. ^ a b Russia's Response to Sanctions: How Western Economic Statecraft is Reshaping... - Richard Connolly - Google Sách
  97. ^ Justin Lahart (ngày 16 tháng 12 năm 2014). “Yield Seekers Prone to Russia's Disease”. Wall Street Journal. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2014.
  98. ^ Mike Dorning and Ian Katz (ngày 16 tháng 12 năm 2014). 16 tháng 12 năm 2014/u-s-won-t-ease-sanctions-to-prevent-economic-meltdown-in-russia.html “U.S. Won't Ease Sanctions to Stem Russia's Economic Crisis” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Bloomberg. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2014.
  99. ^ “The average salary in Russia is now lower than in China and Poland”. rbth.
  100. ^ “Number of Russians Living in Poverty Rises”. The Wall Street Journal. ngày 21 tháng 3 năm 2016.
  101. ^ “Today's Stock Market News and Analysis from Nasdaq.com”. NASDAQ.com.
  102. ^ a b “Nga tìm lối thoát kinh tế”.
  103. ^ a b “Nước Nga 20 năm sau lời hứa của Tổng thống Putin”.
  104. ^ "Land Use Lưu trữ 2014-03-26 tại Wayback Machine"
  105. ^ Data Lưu trữ 2011-05-01 tại Wayback Machine by Rosstat (tiếng Nga)
  106. ^ Russia takes the third place in the world by grain exports, rosbankjournal.ru (tiếng Nga)
  107. ^ Data Lưu trữ 2011-05-01 tại Wayback Machine by Rosstat (tiếng Nga)
  108. ^ Main agricultural products by type of owners Lưu trữ 2011-05-01 tại Wayback Machine Rosstat, 2009 (tiếng Nga)
  109. ^ “FAO. 2010. Global Forest Resources Assessment 2010. Main Report. FAO Forestry Working Paper 163, Rome, Italy” (PDF). Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2013.
  110. ^ Глобальная оценка лесных ресурсов 2010 года [Global Forest Resources Assessment 2010] (PDF) (bằng tiếng Nga). FAO Forestry Working Paper 163, Rome, Italy. 2010.
  111. ^ “The Russian Federation Forest Sector Outlook Study to 2030” (PDF). FAO. Rome, Italy. 2012. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2013.
  112. ^ “Những cánh rừng Nga oằn mình trước cơn khát gỗ của Trung Quốc”.
  113. ^ “Những vấn đề môi trường của Liên bang Nga hiện nay”.[liên kết hỏng]
  114. ^ Vì sao công nghiệp Nga phát triển trì trệ? | Báo điện tử Tầm Nhìn
  115. ^ Công nghiệp quốc phòng Nga ra sao khi bị Phương Tây o ép? - 10-01-2015 | Người lính | Báo điện tử Tiền Phong
  116. ^ “Nỗi đau người Nga và bài học cho Việt Nam - DVO - Báo Đất Việt”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 12 năm 2013.
  117. ^ Kỹ sư CNQP Nga sang Đức, Italy "học hỏi" | Tin tức | Kienthuc.net.vn
  118. ^ SpaceX lần thứ 9 phóng thành công tên lửa lên trạm ISS | Tạp chí giao thông vận tải
  119. ^ “Thượng viện Mỹ chấp thuận mua động cơ tên lửa Nga - VnExpress”. VnExpress - Tin nhanh Việt Nam. 11 tháng 6 năm 2016. Truy cập 23 tháng 12 năm 2017.
  120. ^ Linh kiện điện tử xuất lậu sang Nga - Tuổi Trẻ Online
  121. ^ Nga mua hàng tỷ USD linh kiện quốc phòng của Trung Quốc - Infonet
  122. ^ Nga mua linh kiện quân sự, Trung Quốc vui mừng khôn xiết
  123. ^ “Vì sao nói Nga không thể hoàn thành công nghiệp hóa?”.
  124. ^ “Sự kiện & Bình luận Tin "gió mùa đông bắc" tại châu Âu”. line feed character trong |tiêu đề= tại ký tự số 20 (trợ giúp)
  125. ^ “Cuộc chiến giá dầu Saudi Arabia - Nga: "Kẻ khóc, người cười".
  126. ^ RIA Novosti
  127. ^ a b Astrasheuskaya, Nastassia. “US and EU sanctions take toll on Russian oil and gas exploration”.
  128. ^ “Russian Railways”. Eng.rzd.ru. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2010.
  129. ^ Lịch trình đường sắt CIS Lưu trữ 2009-07-27 tại Wayback Machine, tuyến số 002, Moscow-Bình Nhưỡng, tháng 8 năm 2009.
  130. ^ Lịch trình đường sắt CIS Lưu trữ 2009-07-27 tại Wayback Machine, tuyến số 350, Kiev-Vladivostok, tháng 8 năm 2009.
  131. ^ “Протяженность путей сообщения”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2019.
  132. ^ “CIA The World Factbook–Rank Order–Airports”. Cia.gov. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2011.
  133. ^ Kuzmin, Viktor (ngày 3 tháng 7 năm 2014). “Concern in Russia as foreign tourist numbers slump”.
  134. ^ “American Institute of Aeronautics and Astronautics - Home Page”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 10 năm 2005. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2005.
  135. ^ Space industry: Do we have lift-off? | The Economist
  136. ^ Medvedev cảnh báo Nga đang thua trong cuộc đua vũ trụ
  137. ^ Nga quyết chấn chỉnh công nghiệp vũ trụ - VnExpress
  138. ^ “Europe Joins Russia on Robotic ExoMars”. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2013. Truy cập 30 tháng 4 năm 2015.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  139. ^ The Space Review: Red Planet blues
  140. ^ “To Mars and back in 520 days Russia Beyond The Headlines”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2012. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
  141. ^ Từ Mars One đến Mars 500
  142. ^ “U.S. military, national security agencies vexed by dependence on Russian rocket engines”.
  143. ^ Why America Needs a New Upper Stage Rocket More Than a Russian RD-180 Replacement | The National Interest Blog
  144. ^ “Lầu Năm Góc "nài nỉ" Thượng viện cho phép mua động cơ tên lửa Nga”. Báo An ninh Thủ đô. Truy cập 15 tháng 8 năm 2015.
  145. ^ “Antares Upgrade Will Use RD-181s In Direct Buy From Energomash”. Truy cập 24 tháng 9 năm 2015.
  146. ^ “Discovery Top Ten Tanks: T-34”. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.
  147. ^ Poyer, Joe. The AK-47 and AK-74 Kalashnikov Rifles and Their Variations. North Cape Publications. 2004.
  148. ^ “Weaponomics: The Economics of Small Arms” (PDF).
  149. ^ http://en.rian.ru/russia/20091011/156428675.html RIA Novosti: Medvedev outlines priorities for Russian economy's modernization
  150. ^ “13 tháng 1 năm 2012-su-noi-len-cua-cac-timbis”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 1 năm 2022.
  151. ^ “Nga mua linh kiện quân sự, Trung Quốc vui mừng khôn xiết”.
  152. ^ “Chuyện gì đang xảy ra với GLONASS Nga?”.[liên kết hỏng]
  153. ^ +74959376170. “Из спутников «Глонасс» уберут импортные комплектующие”. Известия. Truy cập 1 tháng 1 năm 2024.Quản lý CS1: tên số: danh sách tác giả (liên kết)
  154. ^ “Внедрение китайского вооружения и оборудования в российскую военную технику – уже не новость. Масштабы поражают воображение”.
  155. ^ “Nhà khoa học Nga thử nghiệm động cơ cho tốc độ 1.000 km/giây - VnExpress”. VnExpress - Tin nhanh Việt Nam. Truy cập 9 tháng 8 năm 2016.
  156. ^ Tổng thống Nga Putin công bố vaccine COVID-19 đầu tiên của thế giới | Cổng TTĐT tỉnh Hà Tĩnh
  157. ^ “Nga sẽ thay các vi xử lý [[Intel]] và [[AMD]] bằng chip nội địa Baikal trong cơ quan nhà nước”. Tựa đề URL chứa liên kết wiki (trợ giúp)
  158. ^ “В 2021 г. «Эльбрусов» будет выпущено в 20 раз меньше, чем «Байкалов», но разработчики не считают это проигрышем”.
  159. ^ “Russian Census of 2002”. 4.1. National composition of population. Federal State Statistics Service. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2008.
  160. ^ a b c d e “Demographics”. Federal State Statistics Service. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2009.
  161. ^ “ngày 1 tháng 6 năm 2007: A great number of children in Russia remain highly vulnerable”. United Nations Children's Fund. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  162. ^ Xem Danh sách quốc gia theo mật độ dân số
  163. ^ “Resident population”. Federal State Statistics Service. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  164. ^ a b “Demography”. Federal State Statistics Service. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 3 năm 2008.
  165. ^ “Russia cracking down on illegal migrants”. International Herald Tribune. ngày 15 tháng 1 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2008.
  166. ^ Ethnic groups in Russia, 2002 census, Demoscope Weekly. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2009
  167. ^ Russians left behind in Central Asia, BBC News, ngày 23 tháng 11 năm 2005.
  168. ^ “Demographics”. Library of Congress. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2008.
  169. ^ “Russia's population down 0.17% in 2007 to 142 mln”. RIA Novosti. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  170. ^ a b “Demographic balance and crude rates at national level”. Eurostat. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2016.
  171. ^ “Country Profile: Russia” (PDF). Library of Congress—Federal Research Division. tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  172. ^ “Immigration Drives Russian Population Increase”. ria.ru. ngày 20 tháng 8 năm 2012.
  173. ^ Russian Emigration Spikes in 2013-2014 | The Diplomat
  174. ^ “Russian Census of 2002”. 4.3. Population by nationalities and knowledge of Russian; 4.4. Spreading of knowledge of languages (except Russian). Federal State Statistics Service. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2008.
  175. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 68, §2). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  176. ^ “Russian”. University of Toronto. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  177. ^ Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007. “Russian language”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  178. ^ “Russian language course”. Russian Language Centre, Moscow State University. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  179. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 43 §1). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  180. ^ Smolentseva, A. “Bridging the Gap Between Higher and Secondary Education in Russia”. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  181. ^ “Russia Country Guide”. EUbusiness.com. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  182. ^ “Background Note: Russia”. U.S. Department of State. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2008.
  183. ^ “Đoàn tàu kinh tế Nga xa dần đường ray tăng trưởng”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2014.
  184. ^ “Higher Education Institutions”. Federal State Statistics Service. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 1 năm 2008.
  185. ^ Education for all by 2015. UNESCO, Oxford University Press
  186. ^ [3][liên kết hỏng]
  187. ^ “Higher education structure”. State University Higher School of Economics. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  188. ^ “The Constitution of the Russian Federation”. (Article 41). Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  189. ^ “Russian ombudsman about propiska restrictions in modern Russia”. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  190. ^ “Residency Restrictions in Moscow by Brad K. Blitz” (PDF). Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2008.
  191. ^ Field, M G. The health and demographic crisis in post-Soviet Russia: a two-phase development in "Russia's Torn Safety Nets", edited by Field M. G., Twigg J. L. (eds). 2000:11–42: St. Martin's Press.Quản lý CS1: địa điểm (liên kết)
  192. ^ “Highlights on Health in the Russian Federation” (PDF). World Health Organization. 1999. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 29 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  193. ^ Leonard, W R (2002). “Declining growth status of indigenous Siberian children in post-Soviet Russia”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  194. ^ ОЖИДАЕМАЯ ПРОДОЛЖИТЕЛЬНОСТЬ ЖИЗНИ ПРИ РОЖДЕНИИ [Life expectancy at birth]. Rosstat. ngày 2 tháng 4 năm 2015. Bản gốc (XLS) lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2015.
  195. ^ “European Union”. Central Intelligence Agency. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2008.
  196. ^ a b “Heart disease kills 1.3 million annually in Russia — chief cardiologist”. RIA Novosti. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  197. ^ Burlington Free Press, ngày 26 tháng 6 năm 2009, page 2A, "Study blames alcohol for half Russian deaths"
  198. ^ “Corruption Pervades Russia's Health System”. CBS News. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  199. ^ “Third of Russians smoke, but half welcome public smoking ban”. RIA Novosti. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  200. ^ “HIV/AIDS in the Russian Federation”. The World Bank. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  201. ^ “Russian regional HIV vaccine center seeks $40–50 mln from budget”. RIA Novosti. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  202. ^ “Russian Federation”. UNAIDS: The Joint United Nations Programme on HIV/AIDS. Russian Federation AIDS information Bản gốc Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp) lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  203. ^ “119,000 TB cases in Russia — health official”. RIA Novosti. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  204. ^ “Country Profile: Russia” (PDF). Library of Congress—Federal Research Division. 2006. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  205. ^ “Russian policies ignite unprecedented birth rate in 2007”. The Economic Times. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2008.
  206. ^ “United Nations Expert Group Meeting On International Migration and Development” (PDF). Population Division; Department of Economic and Social Affairs; United Nations Secretariat. 6–ngày 8 tháng 7 năm 2005. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày= (trợ giúp)
  207. ^ “In Putin's Russia, Universal Health Care Is for All Who Pay”. Bloomberg.com. ngày 13 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2017.
  208. ^ “Putin's Cutbacks in Health Care Send Russian Mortality Rates Back Up – Jamestown”.
  209. ^ Russian Cuisine by Ruth Jenkins, page 48
  210. ^ "Arena: Atlas of Religions and Nationalities in Russia". Sreda, 2012.
  211. ^ 2012 Arena Atlas Religion Maps. "Ogonek", № 34 (5243), 27/08/2012. Truy cập 21/04/2017. Archived.
  212. ^ Bell, I. “Eastern Europe, Russia and Central Asia”. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  213. ^ Zuckerman, P (2005). Atheism: Contemporary Rates and Patterns, chapter in The Cambridge Companion to Atheism, ed. by Michael Martin. Cambridge University Press.
  214. ^ “Religion In Russia”. Embassy of the Russian Federation. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2001. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  215. ^ a b Microsoft Encarta Online Encyclopedia 2007. “Russia”. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  216. ^ “Russia”. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2008.
  217. ^ (tiếng Nga) Опубликована подробная сравнительная статистика религиозности в России и Польше”. religare.ru. ngày 6 tháng 6 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  218. ^ “Fact Box: Muslims In Russia”. Radio Free Europe. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  219. ^ Page, J. “The rise of Russian Muslims worries Orthodox Church”. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007. Đã bỏ qua tham số không rõ |published= (trợ giúp)
  220. ^ “20Mln Muslims in Russia and mass conversion of ethnic Russians are myths — expert”. Interfax. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2008.
  221. ^ “Russia's Islamic rebirth adds tension”. Financial Times. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  222. ^ 27 tháng 6 năm 2007-voa4.cfm Russia Faces Population Dilemma, VOA News, ngày 18 tháng 6 năm 2007
  223. ^ Mainville, M (ngày 19 tháng 11 năm 2006). “Russia has a Muslim dilemma”. Page A - 17. San Francisco Chronicle. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  224. ^ Nettleton, S. “Prayers for Ivolginsky”. CNN. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2001. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  225. ^ “Russia::Religion”. Encyclopædia Britannica Online. 2007. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2007.
  226. ^ a b Kowalewski, David (tháng 10 năm 1980). “Protest for Religious Rights in the USSR: Characteristics and Consequences”. Russian Review. 39 (4): 426–441. doi:10.2307/128810. JSTOR 128810.
  227. ^ Ramet, Sabrina Petra. (Ed) (1993). Religious Policy in the Soviet Union. Cambridge University Press. tr. 4.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
  228. ^ Anderson, John (1994). Religion, State and Politics in the Soviet Union and Successor States. Cambridge: Cambridge University Press. tr. 3. ISBN 978-0-521-46784-1.
  229. ^ “Anti-religious Campaigns”. Loc.gov. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2011.
  230. ^ Nghiên cứu Quốc gia: Nga - Nhà thờ Chính thống Nga Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2008
  231. ^ ANALYSIS (ngày 10 tháng 5 năm 2017). “Religious Belief and National Belonging in Central and Eastern Europe” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 13 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2017.
  232. ^ “Religious Belief and National Belonging in Central and Eastern Europe”. ngày 10 tháng 5 năm 2017.
  233. ^ Lịch sử của nhạc Rock ở Nga
  234. ^ Kelly, C (2001). Russian Literature: A Very Short Introduction (Paperback). Oxford Paperbacks. ISBN 0-19-280144-9.
  235. ^ “Russian literature; Leo Tolstoy”. Encyclopædia Britannica. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2008.
  236. ^ Otto Friedrich (ngày 6 tháng 9 năm 1971). “Freaking-Out with Fyodor”. Time Magazine. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2008.
  237. ^ Birgit Beumers. A History of Russian Cinema. Berg Publishers (2009). ISBN 978-1-84520-215-6. p. 143.
  238. ^ Ruiz, Rebecca (18 tháng 7 năm 2016). “Russia May Face Olympics Ban as Doping Scheme Is Confirmed”. The New York Times. ISSN 0362-4331. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2016.
  239. ^ “MCLAREN INDEPENDENT INVESTIGATION REPORT – PART II”. wada-ama.org. 9 tháng 12 năm 2016.
  240. ^ Ruiz, Rebecca R. (9 tháng 12 năm 2016). “Russia's Doping Program Laid Bare by Extensive Evidence in Report”. The New York Times.
  241. ^ Ostlere, Lawrence (9 tháng 12 năm 2016). “McLaren report: more than 1,000 Russian athletes involved in doping conspiracy”. The Guardian.
  242. ^ Ellingworth, James (13 tháng 12 năm 2016). “Emails show how Russian officials covered up mass doping”. Associated Press. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2016.
  243. ^ "Yashin, the impregnable Spider" Lưu trữ 2013-11-28 tại Archive.today. FIFA. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013
  244. ^ Information of Russia by Ruth Jenkkins, page 52 and 53
  245. ^ “UNODC Statistics Online”. United Nations Office On Drugs and Crime. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2018.".
  246. ^ Problems of USSR, page 101
  247. ^ Nga dự định chi 20 tỉ USD cho World Cup 2018
  248. ^ “Corruption Perceptions Index 2014”. Transparency International. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  249. ^ Suhara, Manabu. “Corruption in Russia: A Historical Perspective” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  250. ^ “Russia lost 4 billion dollars on unfavorable state procurement contracts in the last year”. Meduza (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 7 tháng 12 năm 2015.
  251. ^ “Cops for hire”. Economist. 2010. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  252. ^ Klara Sabirianova Peter; Tetyana Zelenska (2010). “Corruption in Russian Health Care: The Determinants and Incidence of Bribery” (PDF). Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  253. ^ Elena Denisova-Schmidt; Elvira Leontyeva; Yaroslav Prytula (2014). “Corruption at Universities is a Common Disease for Russia and Ukraine”. Harvard University. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2015.
  254. ^ e.V., Transparency International. “Corruption Perceptions Index 2016”. www.transparency.org. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2017.
  255. ^ “Коррупция в России как система "распилки" ВВП - новость из рубрики Общество, актуальная информация, обсуждение новости, дискуссии на Newsland”. Newsland.ru. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  256. ^ “Suicide rates Data by country”. World Health Organization. 2016. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2018.
  257. ^ Kates, Glenn (19 tháng 4 năm 2012). “A Spate of Teenage Suicides Alarms Russians”. The New York Times. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2013.
  258. ^ (globalterrorismdb_0616dist.xlsx Lưu trữ 2016-07-10 tại Wayback Machine)
  259. ^ Global Terrorism Database (gtd1993_0616dist.xlsx Lưu trữ 2016-07-10 tại Wayback Machine). Truy cập from https://www.start.umd.edu/gtd University of Maryland
  260. ^ National Consortium for the Study of Terrorism and Responses to Terrorism. (2016). Global Terrorism Database (globalterrorismdb_0616dist.xlsx Lưu trữ 2016-07-10 tại Wayback Machine).
  261. ^ National Consortium for the Study of Terrorism and Responses to Terrorism. (2016). Global Terrorism Database (gtd1993_0616dist.xlsx Lưu trữ 2016-07-10 tại Wayback Machine). University of Maryland
  262. ^ Những vụ khủng bố thảm khốc ở Nga
  263. ^ vnexpress

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • The New Columbia Encyclopedia, Col.Univ.Press, 1975

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]

Các nguồn của chính quyền

[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin chung

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
So sánh cà phê Arabica và Robusta loại nào ngon hơn?
So sánh cà phê Arabica và Robusta loại nào ngon hơn?
Trên thế giới có hai loại cà phê phổ biến nhất bao gồm cà phê Arabica (hay còn gọi là cà phê chè) và cà phê Robusta (hay còn gọi là cà phê vối)
Yōkoso Jitsuryoku Shijō Shugi no Kyōshitsu e - chương 7 - vol 9
Yōkoso Jitsuryoku Shijō Shugi no Kyōshitsu e - chương 7 - vol 9
Ichinose có lẽ không giỏi khoản chia sẻ nỗi đau của mình với người khác. Cậu là kiểu người biết giúp đỡ người khác, nhưng lại không biết giúp đỡ bản thân. Vậy nên bây giờ tớ đang ở đây
Chia sẻ kinh nghiệm tổ chức đám cưới từ A tới Z
Chia sẻ kinh nghiệm tổ chức đám cưới từ A tới Z
Bạn đang lên kế hoạch cho lễ cưới của mình? Bạn cần tham khảo những kinh nghiệm của những người đi trước để có một lễ cưới trọn vẹn
Nhân vật Tsugikuni Yoriichi -  Kimetsu no Yaiba
Nhân vật Tsugikuni Yoriichi - Kimetsu no Yaiba
Tsugikuni Yoriichi「継国緑壱 Tsugikuni Yoriichi」là một kiếm sĩ diệt quỷ huyền thoại thời Chiến quốc. Ông cũng là em trai song sinh của Thượng Huyền Nhất Kokushibou.