Trương Vạn Niên | |
---|---|
張萬年 | |
Trương Vạn Niên | |
Phó Chủ tịch thứ nhất Ủy ban Quân sự Trung ương | |
Nhiệm kỳ Ủy ban Đảng: 28 tháng 9 năm 1995 – 15 tháng 11 năm 2002 7 năm, 48 ngày Ủy ban Nhà nước: Tháng 12 năm 1995 – 5 tháng 3 năm 2003 Cùng với Lưu Hoa Thanh, Trương Chấn, Trì Hạo Điền và Hồ Cẩm Đào đồng thời tại nhiệm | |
Chủ tịch | Giang Trạch Dân |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | Tháng 8 năm 1928 Long Khẩu, tỉnh Sơn Đông, Trung Hoa Dân Quốc |
Mất | 14 tháng 1 năm 2015 Bắc Kinh, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | (86 tuổi)
Tặng thưởng | Huân chương Giải phóng (Hạng 3) |
Phục vụ trong quân đội | |
Năm tại ngũ | 1944–2003 |
Cấp bậc | Thượng tướng |
Tham chiến | Chiến tranh biên giới Việt–Trung 1979, Chiến tranh Triều Tiên, Cách mạng Trung Quốc (1949) |
Trương Vạn Niên | |||||||
Phồn thể | 張萬年 | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Giản thể | 张万年 | ||||||
|
Trương Vạn Niên (tiếng Trung: 张万年; tháng 8 năm 1928 — ngày 14 tháng 1 năm 2015) là Thượng tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA).[1]
Trương Vạn Niên sinh tháng 8 năm 1928 tại huyện Hoàng (nay là Long Khẩu), tỉnh Sơn Đông.[1]
Ông gia nhập Bát lộ quân tháng 8 năm 1944[2] và Đảng Cộng sản Trung Quốc tháng 8 năm 1945.[1]
Năm 1958 đến năm 1961, Trương Vạn Niên theo học khoa dự bị và khoa cơ bản tại Học viện Quân sự Nam Kinh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.[1] Năm 1962 đến năm 1966, ông là Trung đoàn trưởng Trung đoàn 367, trực thuộc Sư đoàn 123, Quân đoàn 41 Lục quân. Năm 1966 đến năm 1968, ông là Phó Trưởng ban Tác chiến Bộ Tư lệnh Quân khu Quảng Châu. Năm 1968 đến năm 1978, ông giữ chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 127, Quân đoàn 43 Lục quân. Năm 1978 đến năm 1981, ông là Phó Quân đoàn trưởng Quân đoàn 43 Lục quân kiêm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 127. Ông học tại Học viện Quân sự Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc từ năm 1978 đến năm 1979. Trương Vạn Niên dẫn dắt Sư đoàn 127, Quân đoàn 43 Lục quân trong cuộc chiến tranh biên giới Việt — Trung năm 1979. Năm 1981 đến năm 1982, ông giữ chức Quân đoàn trưởng Quân đoàn 43 Lục quân. Năm 1982 đến năm 1985, ông là Phó Tư lệnh Quân khu Vũ Hán.[3]
Năm 1985 đến năm 1987, ông giữ chức Phó Tư lệnh Quân khu Quảng Châu và trở thành Phó Bí thư Quân khu kiêm Tư lệnh Quân khu Quảng Châu từ năm 1987 đến năm 1990. Năm 1990 đến năm 1992, ông giữ chức Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu kiêm Tư lệnh Quân khu Tế Nam.[4]
Năm 1992, Trương Vạn Niên trở thành Ủy viên Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và Bí thư Đảng ủy Bộ Tổng Tham mưu. Tháng 9 năm 1995, ông được bầu làm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương (CMC), cùng với Thượng tướng Trì Hạo Điền. Tháng 9 năm 1997, tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 15, Trương Vạn Niên được bầu làm Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương (CMC), cùng được bầu lại làm Phó Chủ tịch CMC là Thượng tướng Trì Hạo Điền. Trương Vạn Niên tham dự các nghi lễ chuyển đổi tại Hồng Kông năm 1997 với tư cách là đại diện quân sự cao cấp duy nhất (Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương), cho thấy vị trí ưu việt của ông trong quân đội.[1]
Ông là Đại biểu Đại hội đại biểu Toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa IX và Ủy viên dự khuyết Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XII (1982 - 1987), khóa XIII (1987 - 1992). Ông là Ủy viên chính thức Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XIV (1992 -1997) và khóa XV (1997 - 2002), Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XV.[1]
Trương Vạn Niên được trao tặng quân hàm Trung tướng tháng 9 năm 1988 và thăng quân hàm Thượng tướng tháng 6 năm 1993.[1] Ông nghỉ hưu năm 2003.[3]
Ông kết hôn với Chung Bội Chiêu (钟佩昭).[3]