USS Hart (DD-110)

USS Hart (DD-110)
Tàu khu trục USS Hart (DD-110)
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Hart
Đặt tên theo Ezekiel HartJohn E. Hart
Xưởng đóng tàu Union Iron Works, San Francisco, California
Đặt lườn 8 tháng 1 năm 1918
Hạ thủy 4 tháng 7 năm 1918
Người đỡ đầu bà Daniel C. Nutting
Nhập biên chế 26 tháng 5 năm 1919
Xuất biên chế 1 tháng 6 năm 1931
Xóa đăng bạ 11 tháng 11 năm 1931
Số phận Bán để tháo dỡ, 25 tháng 2 năm 1932
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Wickes
Trọng tải choán nước
  • 1.154 tấn Anh (1.173 t) (thông thường),
  • 1.247 tấn Anh (1.267 t) (đầy tải)
Chiều dài 314,4 ft (95,83 m)
Sườn ngang 31 ft (9,45 m)
Mớn nước 9 ft (2,74 m)
Động cơ đẩy
  • 2 × turbine hơi nước hộp số Parsons;[1]
  • 4 × nồi hơi 300 psi (2.100 kPa);[1]
  • 2 × trục;
  • công suất 24.610 hp (18.350 kW)
Tốc độ 35,3 kn (65,4 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa 133 sĩ quan và thủy thủ
Vũ khí

USS Hart (DD-110) là một tàu khu trục thuộc lớp Wickes của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, và sau đó mang ký hiệu lườn DM-8 như một tàu rải mìn hạng nhẹ. Tên của nó được đặt theo Ezekiel HartJohn E. Hart, các sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ.

Thiết kế và chế tạo

[sửa | sửa mã nguồn]

Hart được đặt lườn vào ngày 8 tháng 1 năm 1918 tại xưởng tàu của hãng Union Iron WorksSan Francisco, California. Nó được hạ thủy vào ngày 4 tháng 7 năm 1918, được đỡ đầu bởi bà Daniel C. Nutting, và được đưa ra hoạt động vào ngày 26 tháng 5 năm 1919 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Harold Jones.

Lịch sử hoạt động

[sửa | sửa mã nguồn]

Hart gia nhập lực lượng khu trục và hoạt động ngoài khơi bờ biển California cho đến ngày 17 tháng 7 năm 1920, khi nó được xếp lại lớp như một tàu rải mìn hạng nhẹ với ký hiệu lườn mới DM-8, và được gửi đến Xưởng hải quân Mare Island để lắp đặt các thiết bị rải mìn. Sau khi được cải biển, Hart được phân về chi đội rải mìn của hạm đội Á Châu, và lên đường đi sang quần đảo Philippine vào tháng 11 năm 1920. Nó hoạt động thường lệ tại vùng biển ngoài khơi Philippine và Trung Quốc trong giai đoạn thời bình.

Được lệnh quay trở về San Diego, California để xuất biên chế, Hart khởi hành từ Manila vào ngày 12 tháng 12 năm 1930, và về đến San Diego vào ngày 24 tháng 1 năm 1931. Nó chính thức ngừng hoạt động vào ngày 1 tháng 6 năm 1931; tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 11 tháng 11, và xác tàu được bán để tháo dỡ vào ngày 25 tháng 2 năm 1932 nhằm tuân thủ những điều khoản của Hiệp ước Hải quân London về hạn chế vũ trang hải quân.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c d e Thomas, Donald I., CAPT USN "Recommissioning Destroyers, 1939 Style" United States Naval Institute Proceedings September 1979 tr. 71

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]