Đại học Salamanca

Đại học Salamanca
Universidad de Salamanca
tiếng Latinh: Universitas Studii Salamanticensis
Khẩu hiệutiếng Latinh: Omnium scientiarum princeps Salmantica docet ("Nguyên lý của mọi môn khoa học đều được dạy ở Salamanca")
Loại hìnhĐại học công lập
Thành lậpChưa rõ; bắt đầu dạy học ít nhất là từ năm 1130.[1]
Hiệu trưởngRicardo Rivero Ortega
Giảng viên
2.453[2]
Nhân viên quản lý
1.252[2]
Sinh viênkhoảng 28.000[3]
Nghiên cứu sinh
2.240[3]
Vị trí,
Khuôn viênNội ô
Liên kếtHiệp hội Đại học Châu Âu (EUA), Nhóm Coimbra
Websitewww.usal.es
Facade của trường, đối diện là tượng Luis de León

Đại học Salamanca (tiếng Tây Ban Nha: Universidad de Salamanca, tiếng Latinh: Universitas Studii Salmanticensis) là một tổ chức giáo dục đại học của Tây Ban Nha, tọa lạc ở thành phố Salamanca, phía tây thủ đô Madrid, thuộc khu vực tự trị Castile và León. Trường được thành lập vào năm 1134 và được Vua Alfonso IX ban cho điều lệ hoàng gia vào năm 1218. Đây là trường đại học lâu đời nhất trong cộng đồng nói tiếng Tây Ban Nha và là trường đại học lâu đời thứ ba trên toàn thế giới vẫn còn hoạt động. Danh hiệu chính thức "Đại học" được Vua Alfonso X ban năm 1254 và được Giáo hoàng Alexanđê IV công nhận năm 1255.

Lịch sử

[sửa | sửa mã nguồn]

Cũng giống như những trường đại học cổ kính khác, Đại học Salamanca khởi sự từ một trường dòng của nhà thờ Thiên chúa giáo.

Lúc Colombo đệ trình ý tưởng kêu gọi Nhà vua và Nữ hoàng Tây Ban Nha lập hợp đồng cho một chuyến hải hành về phía tây để hướng đến Ấn Độ, chính ông đã đưa vấn đề này ra xin ý kiến ở hội đồng các nhà địa lý học tại Đại học Salamanca.

Khi thời hoàng kim của Tây Ban Nha (khoảng 1492-1681) dần tàn tạ, chất lượng học thuật nói chung của các trường đại học Tây Ban Nha cũng suy vi. Tần suất cấp bằng giảm, phạm vi nghiên cứu thu hẹp và số lượng sinh viên của trường giảm mạnh. Uy tín hàng thế kỷ tại Âu châu của trường Salamanca cũng suy giảm.

Đại học Salamanca thu hút sinh viên đại học và sau đại học không chỉ ở Tây Ban Nha mà khắp nơi trên thế giới; đây là trường đại học được xếp hạng hàng đầu ở Tây Ban Nha dựa trên số lượng sinh viên đến từ các tỉnh thành khác.[4] Trường có các khóa học tiếng Tây Ban Nha thu hút hơn hai nghìn sinh viên nước ngoài mỗi năm.[5]

Ngày nay, Đại học Salamanca là một trung tâm nghiên cứu quan trọng của ngành nhân văn và có uy tín trong các lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ, luật học và kinh tế học. Hoạt động nghiên cứu khoa học diễn ra tại trường và các cơ sở nghiên cứu trực thuộc, chẳng hạn như tại Trung tâm nghiên cứu ung thư,[6] Viện khoa học thần kinh Castile và León,[7] Trung tâm Laser xung Siêu ngăn Siêu mạnh.

Trường Salamanca cùng với Đại học Cambridge là đồng sáng lập của Hiệp hội Khảo thí Ngôn ngữ Châu Âu (ALTE) vào năm 1989.

Thư viện trường chứa khoảng 906.000 tài liệu.[8]

Nhân sự nổi bật

[sửa | sửa mã nguồn]

Giảng viên nổi bật

[sửa | sửa mã nguồn]

Môn sinh nổi bật

[sửa | sửa mã nguồn]

Ngoài ra còn có nhiều nhân vật khác, như:

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ ÁLVAREZ VILLAR, Julián (1993), La Universidad de Salamanca: arte y tradiciones, ISBN 847481751X
  2. ^ a b University of Salamanca. “Personal” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2008.
  3. ^ a b University of Salamanca. “Estudiantes” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2008.
  4. ^ “Bản sao đã lưu trữ” (PDF). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 28 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2019.
  5. ^ La USAL inaugura los cursos de verano con 2.000 estudiantes extranjeros. elmundo.es. Truy cập 2013-09-05.
  6. ^ “Cancer Research Institute of Salamanca CSIC-USAL”. Truy cập 4 tháng 9 năm 2019.
  7. ^ (tiếng Tây Ban Nha) INCyL. INCyL. Truy cập 2013-09-05.
  8. ^ Spain – Libraries and museums
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Đã biết có cố gắng mới có tiến bộ, tại sao nhiều người vẫn không chịu cố gắng?
Đã biết có cố gắng mới có tiến bộ, tại sao nhiều người vẫn không chịu cố gắng?
Những người càng tin vào điều này, cuộc sống của họ càng chịu nhiều trói buộc và áp lực
Nhân vật Yamada Asaemon Sagiri -  Jigokuraku
Nhân vật Yamada Asaemon Sagiri - Jigokuraku
Yamada Asaemon Sagiri (山田やま浅だあェえも門ん 佐さ切ぎり) là Asaemon hạng 12 của gia tộc Yamada, đồng thời là con gái của cựu thủ lĩnh gia tộc, Yamada Asaemon Kichij
KLAUS (2019) - Khi phim hoạt hình không chỉ dành cho trẻ em
KLAUS (2019) - Khi phim hoạt hình không chỉ dành cho trẻ em
Ngay từ đầu mục đích của Jesper chỉ là lợi dụng việc những đứa trẻ luôn thích đồ chơi, dụ dỗ chúng viết thư cho ông già Noel còn mình thì nhanh chóng đạt được mục tiêu bố đề ra và trở lại cuộc sống vô lo vô nghĩ ngày nào
Nhật Bản - Sự Trỗi Dậy Của Con Hổ Phương Đông?
Nhật Bản - Sự Trỗi Dậy Của Con Hổ Phương Đông?
BoJ đã chính thức trở thành ngân hàng cuối cùng trên thế giới nới lỏng chính sách tiền tệ cực kỳ lỏng lẻo khi quốc gia này đang phải đối mặt với hàng thập kỷ giảm phát.