Việt Nam Cộng hòa
|
|||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
1965–1967 | |||||||||
Vị trí Việt Nam Cộng hòa tại Á châu | |||||||||
Tổng quan | |||||||||
Thủ đô | Sài Gòn | ||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Việt Tiếng Pháp Tiếng Anh | ||||||||
Tôn giáo chính | Đa tín ngưỡng | ||||||||
Chính trị | |||||||||
Chính phủ | Quân phiệt | ||||||||
Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia | |||||||||
• 1965–1967 | Nguyễn Văn Thiệu | ||||||||
Chủ tịch Ủy ban Hành pháp | |||||||||
• 1965-1967 | Nguyễn Cao Kỳ | ||||||||
Lịch sử | |||||||||
Thời kỳ | Chiến tranh Lạnh | ||||||||
• Thành lập | 12 tháng 6 năm 1965 | ||||||||
1 tháng 4 năm 1967 | |||||||||
Kinh tế | |||||||||
Đơn vị tiền tệ | Đồng | ||||||||
| |||||||||
Hiện nay là một phần của | Việt Nam |
Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia Việt Nam với danh xưng chính thức Chánh-phủ Lâm-thời Việt-Nam Cộng-hòa hoặc Chánh-phủ Quân-phiệt Việt-Nam Cộng-hòa[1] là một cơ quan do Hội đồng Quân lực thiết lập ngày 12 Tháng Sáu năm 1965 để cai trị quốc gia này khi chính phủ dân sự của thủ tướng Phan Huy Quát tê liệt rồi giải tán.
Đây là cơ quan chuyển tiếp từ chế độ quân phiệt lâm thời (1963-1967) sang nền Đệ Nhị Cộng hòa Việt Nam.
Ngày 14-6-1965, Hội đồng Quân lực thành lập Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia do Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu giữ chức Chủ tịch (Quốc trưởng), Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ giữ chức Chủ tịch Ủy ban Hành pháp trung ương (Thủ tướng) và Trung tướng Phạm Xuân Chiểu giữ chức Tổng Thư ký.
Theo quyết nghị của Hội đồng Quân lực thì Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia có sự tham gia của 11 thành viên gồm một Chủ tịch, một Tổng Thư ký, một Ủy viên phụ trách điều khiển Hành pháp, Tổng trưởng Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng, các Tư lệnh bốn Vùng chiến thuật, Tư lệnh Không quân, và Tư lệnh Hải quân.[2]
Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu đứng làm Chủ tịch với cương vị Quốc trưởng, trung tướng Phạm Xuân Chiểu là Tổng Thư ký còn thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ là Ủy viên điều khiển Hành pháp, còn được gọi là Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương tương đương với cương vị Thủ tướng.
Vì ông Nguyễn Cao Kỳ kiêm luôn Tư lệnh Không quân và Thiếu tướng Nguyễn Hữu Có vừa là Tổng trưởng Quốc phòng, kiêm Tổng Tham mưu trưởng nên Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia chỉ có 9 thành viên. Năm quân nhân còn lại là :
Như vậy gồm có:
Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia có trọng trách chỉ huy Quân lực Việt Nam Cộng hòa cùng điều hành quốc gia. Nhiệm vụ này chính thức diễn ra vào ngày 19 Tháng Sáu, 1965 khi Hội đồng Quân lực quyết định giải tán Hội đồng Quốc gia Lập pháp (quyết định số 4/QLVNCH) và ban hành "Ước pháp Tạm thời" gồm 7 thiên, 25 điều. Theo đó thì địa vị các cơ chế như Đại hội đồng Quân lực, Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Hội đồng An ninh Quốc gia, Hội đồng Kinh tế và Xã hội, cùng Thượng Hội đồng thẩm phán (quyết định số 5/QLVNCH) được chuẩn định.
Ủy ban Lãnh đạo Trung ương cũng lập ra Ủy ban Hành pháp Trung ương tức là nội các chính phủ theo sắc lệnh 001/a/CT/LĐQG.[3]
Ngày trình diện quốc dân của Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia được chọn làm "Ngày Quân lực" 19 Tháng Sáu, kỷ niệm hằng năm bằng cuộc diễn binh lớn ở Sài Gòn[4] tuy ngày Quốc khánh vẫn giữ là ngày 1 tháng 11. "Ngày Quân lực" là một trong những ngày nghỉ chính thức của Việt Nam Cộng hòa.[5]