Abemaciclib (tên thương mại Verzenio và Verzenios) là một loại thuốc để điều trị ung thư vú tiến triển hoặc di căn. Nó được phát triển bởi Eli Lilly và nó hoạt động như một chất ức chế CDK chọn lọc cho CDK4 và CDK6.[1]
Vào tháng 9 năm 2017, Abemaciclib được chấp thuận tại Hoa Kỳ trong điều trị ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính, HER-2 (thụ thể của yếu tố tăng trưởng biểu bì-2) âm tính tiến triển tại chỗ hoặc di căn sau khi điều trị với liệu pháp nội tiết, phối hợp với fulvestrant. Abemaciclib cũng được chấp thuận sử dụng đơn trị liệu trong điều trị ung thư vú di căn cho những bệnh nhân từng điều trị với hóa trị phối hợp với liệu pháp nội tiết .[3]
Trong các nghiên cứu so sánh fulvestrant + abemaciclib với fulvestrant + giả dược ở những bệnh nhân ung thư vú, trung bình thời gian sống thêm không tiến triển trong nhóm điều trị với abemaciclib là 16,4 tháng, so với 9,3 tháng dưới với giả dược.[4]
Vì abemaciclib được chuyển hóa chủ yếu bởi enzyme gan CYP3A4, nên các chất ức chế enzyme này (như ketoconazole) dự kiến sẽ làm tăng nồng độ trong huyết tương của nó. Ngược lại, chất cảm ứng CYP3A4 gây ra nồng độ abemaciclib trong huyết tương thấp hơn, như đã được thể hiện trong một nghiên cứu với rifampicin.[4]
Sau khi uống, sinh khả dụng tuyệt đối là 45%. Nồng độ trong huyết tương cao nhất đạt được sau trung bình 8 giờ (khoảng: 4,12424 giờ). Khi lưu hành, 96,3% abemaciclib liên kết với protein huyết tương. Chất này được chuyển hóa chủ yếu bởi enzyme gan CYP3A4 thành N -desethylabemaciclib (M2), và ở mức độ thấp hơn thành các dẫn xuất hydroxy (M18, M20) và một chất chuyển hóa oxy hóa khác (M1). Các chất chuyển hóa này có tỷ lệ gắn kết với protein huyết tương cao tương tự như chất mẹ.[4]
Abemaciclib được bài tiết chủ yếu qua phân (81%) và ở mức độ nhỏ qua nước tiểu (3%). Thời gian bán thải của nó là trung bình 18,3 giờ.[4]
Nghiên cứu MONARCH 2 đang điều tra tính hiệu quả của abemaciclib kết hợp với fulvestrant cho phụ nữ bị ung thư vú.[11] Nó sẽ kết thúc vào tháng 2 năm 2017.[12] Vào tháng 3 năm 2017, Eli Lilly tuyên bố rằng họ đã đáp ứng được điểm cuối chính của sự sống sót không tiến triển vượt trội (PFS) so với giả dược cộng với chất gây nghiện ở bệnh nhân ung thư vú dương tính với thụ thể estrogen và ung thư vú di căn HER2 âm tính.[13] Kết quả này đã dẫn đến sự phê duyệt của FDA vào tháng 9 năm 2017.[14]
Nghiên cứu MONARCH 3 [15] đang nghiên cứu hiệu quả của abemaciclib, cộng với anastrozole hoặc letrozole, là phương pháp điều trị đầu tay cho phụ nữ bị ung thư vú.[16] Thử nghiệm dự kiến sẽ kết thúc vào tháng 6 năm 2017.[15]
^Goodrich DW, Wang NP, Qian YW, Lee EY, Lee WH (tháng 11 năm 1991). “The retinoblastoma gene product regulates progression through the G1 phase of the cell cycle”. Cell. 67 (2): 293–302. doi:10.1016/0092-8674(91)90181-w. PMID1655277.
^Goldman, Jonathan W.; Shi, Peipei; Reck, Martin; Paz-Ares, Luis; Koustenis, Andrew; Hurt, Karla C. (tháng 1 năm 2016). “Treatment Rationale and Study Design for the JUNIPER Study: A Randomized Phase III Study of Abemaciclib With Best Supportive Care Versus Erlotinib With Best Supportive Care in Patients With Stage IV Non–Small-Cell Lung Cancer With a Detectable KRAS Mutation Whose Disease Has Progressed After Platinum-Based Chemotherapy”. Clinical Lung Cancer. 17 (1): 80–84. doi:10.1016/j.cllc.2015.08.003.
^Llombart, Antonio; Toi, Masakazu; Klise, Suzanne R; Frenzel, Martin; Chan, Edward M; Sledge, George W (ngày 30 tháng 4 năm 2015). “Abstract OT1-1-07: A phase III study of abemaciclib (LY2835219) combined with fulvestrant in women with hormone receptor positive (HR+), human epidermal growth factor receptor 2 negative (HER2-) breast cancer (MONARCH 2)”. Cancer Research. 75 (9): OT1–1–07–OT1–1–07. doi:10.1158/1538-7445.SABCS14-OT1-1-07.
^Frederick, Michael O.; Kjell, Douglas P. (tháng 2 năm 2015). “A synthesis of abemaciclib utilizing a Leuckart–Wallach reaction”. Tetrahedron Letters. 56 (7): 949–951. doi:10.1016/j.tetlet.2014.12.082.