Agata Zubel

Agata Zubel
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
String Module Error: String subset indices out of order tháng String Module Error: String subset indices out of order, 1978
Nơi sinh
Wrocław
Giới tínhnữ
Quốc tịchBa Lan
Nghề nghiệpnhà soạn nhạc, ca sĩ opera
Học vịtiến sĩ
habilitation à diriger les recherches
Sự nghiệp nghệ thuật
Đào tạoHọc viện âm nhạc Karol Lipiński ở Wrocław
Thể loạinhạc cổ điển
Nhạc cụgiọng hát
Loại giọnggiọng nữ cao
Thành viên củaLiên hiệp các nhà soạn nhạc Ba Lan
Giải thưởngPaszport Polityki, Huy chương đồng Cống hiến Văn hóa
Website

Agata Zubel (sinh năm 1978 tại Wrocław, Ba Lan)[1] là một nhà soạn nhạc và ca sĩ người Ba Lan.[2]

Cuộc đời

[sửa | sửa mã nguồn]

Zubel tốt nghiệp Trường Trung học Âm nhạc Karol Szymanowski của Wrocław (nhạc cụ gõnhạc lý) và Đại học Âm nhạc Karol Lipiński, nơi bà học về sáng tác cùng với Jan Wichrowski. Bà là thành viên của Nhóm Thanh niên của Liên minh Nhà soạn nhạc Ba Lan và là nhận được học bổng của Bộ Văn hóa và Di sản Quốc gia. Hiện tại bà là Giáo sư giảng dạy tại Học viện Âm nhạc ở Wrocław.[3] Năm 2013, bà được vinh danh bởi Diễn đàn Nhà soạn nhạc Quốc tế của Hội đồng Âm nhạc Quốc tế[4] với sáng tác hay nhất cho Not I.[5]

Vào tháng 10 năm 2017, bà đã được trao Huy chương Đồng "Gloria Artis". Bà là hội viên của Liên minh Nhà soạn nhạc Ba Lan.[6]

Tác phẩm chọn lọc

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Lumiere pour percussion (1997)
  • Nocturne for solo violin (1997)
  • Three Miniatures for piano (1998)
  • Birthday for mixed a cappella choir; text by Wisława Szymborska (1998)
  • A Song about the End of the World for voice, reciter and instrumental ensemble; text by Czesław Miłosz (1998)
  • Meditations for mixed a cappella choir; text by Jan Twardowski (1999)
  • Ragnatela for bassoon and string orchestra (1999)
  • Ludia and Fu for solo guitar (1999)
  • Ballad for voice, percussion and tape (1999)
  • Photographs from an Album for Marimba and String Quartet (2000)
  • Trivellazione a percussione for percussion (2000)
  • Re-Cycle for five percussionists (2001)
  • Lentille for string orchestra, voice and accordion (2001)
  • Symphony No. 1 for orchestra (2002)
  • Nelumbo for four marimbas (2003)
  • Unisono I for voice, percussion and computer (2003)
  • Unisono II for voice, accordion and computer (2003)
  • Concerto grosso for recorder, baroque violin, harpsichord and two choirs (2004)
  • Stories for voice and prepared piano (2004)
  • Symphony No. 2 for 77 performers (2005)
  • String Quartet No. 1 for four cellos and computer (2006)
  • Maximum Load for percussion and computer (2006)
  • Cascando for voice, flute, clarinet, violin and cello (2007)
  • nad Pieśniami [Of the Songs] for soprano (mezzosoprano), cello, mixed choir and orchestra (2007)
  • Between – opera/ballet for voice, electronics and dancers (2008)
  • Not I for voice, ensemble and electronics; text by Samuel Beckett (2010)
  • Symphony No. 3 for a double Bell trumpet and symphony orchestra (2010)
  • Aphorisms on Miłosz (2011)
  • where to for soprano and chamber ensemble (2015)
  • Double Battery for instrumental ensemble (2016)
  • Bildbeschreibung, opera form for two voices, instrumental ensemble and electronics; text by Heiner Müller (2016)
  • Cleopatra's Song for voice and ensemble; text by William Shakespeare (2017)
  • Fireworks for large symphony orchestra (2018)
  • 3x3 for ensemble (2019)
  • Triptyque for ensemble (2020)
  • Memory of Bronze for carillon (2021)
  • Outside the Realm of Time for hologram-soloist and orchestra (2022)

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Wprost i Kultura—SUDDEN RAIN/BETWEEN”. Wprost (bằng tiếng Polish). 5 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012.Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  2. ^ “Soprano Agata Zubel”. Deutsche Welle. 21 tháng 8 năm 2006. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2012.
  3. ^ https://amuz.wroc.pl/prof-dr-hab-agata-zubel-moc-4318
  4. ^ “International Rostrum of Composers 60th Anniversary”.
  5. ^ “Zubel with UNESCO Prize for a Musical Beckett”. Culture.pl. 5 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2013.
  6. ^ “The Koussevitzky Music Foundation | Previous Grants”. www.koussevitzky.org. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2022.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Vì sao Ryomen Sukuna là kẻ mạnh nhất trong Jujutsu Kaisen
Vì sao Ryomen Sukuna là kẻ mạnh nhất trong Jujutsu Kaisen
Con người tụ tập với nhau. Lời nguyền tụ tập với nhau. So sánh bản thân với nhau, khiến chúng trở nên yếu đuối và không phát triển
Rung chấn có phải lựa chọn duy nhất của Eren Jeager hay không?
Rung chấn có phải lựa chọn duy nhất của Eren Jeager hay không?
Kể từ ngày Eren Jeager của Tân Đế chế Eldia tuyên chiến với cả thế giới, anh đã vấp phải làn sóng phản đối và chỉ trích không thương tiếc
Review hòn đảo nhiệt đới Siargao Philippines 3 ngày 2 đêm
Review hòn đảo nhiệt đới Siargao Philippines 3 ngày 2 đêm
Siargao là một hòn đảo phía Đông Nam Philippines, nổi tiếng với hình dáng giọt nước mắt tear-drop
Có gì trong hương vị tình thân
Có gì trong hương vị tình thân
Phải nói đây là bộ phim gây ấn tượng với mình ngay từ tập đầu, cái tên phim đôi khi mình còn nhầm thành Hơi ấm tình thân