Alexandra Stan

Alexandra Stan
Thông tin nghệ sĩ
Tên khai sinhAlexandra Ioana Stan
Sinh10 tháng 6, 1989 (35 tuổi)[1]
Nguyên quánConstanţa, România
Thể loạiHouse music, Pop, Nhạc dance
Nghề nghiệpCa sĩ, người mẫu
Nhạc cụVocals
Năm hoạt động2009–hiện tại
Hãng đĩaMedia Pro, Ultra Music, Columbia Records
Hợp tác vớiCarlprit, Follow Your Instinct
Websitealexandrastan.ro

Alexandra Ioana Stan (sinh ngày 10 tháng sáu 1989), thường được biết đến với tên Alexandra Stan, là một ca sĩ và người mẫu người România. Cô ra mắt single đầu tay của mình, lollipop vào cuối năm 2009, giữ vị trí thứ 18 tại quê nhà.

Ca khúc dance thứ hai của cô, "Mr. Saxobeat", trở thành một bản hit toàn cầu, hơn 10.000.000 bản đã được bán hết trong chưa đầy một năm và lọt vào top năm tại hơn 15 quốc gia, như New Zealand và Vương Quốc Anh, và top 10 tại Australia, top 30 tại Canada và Mỹ. Cô phát hành album đầu tay của mình vào tháng 8 năm 2011, với tiêu đề Saxobeats. Album bao gồm hai single nữa là: "Get Back" và "1.000.000", ca khúc thứ hai hợp tác cùng rapper Carlprit. Vào ngày 4 tháng sáu 2012, cô phát hành single "Lemonade".

Thời thơ ấu và những năm đầu sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Alexandra Stan sinh ra tại Constanța, România. Cô theo học tại trường trung học Traian, và sau đó là sinh viên Khoa Quản trị Andrei Saguna. Ngay từ nhỏ, Alexandra đã bộc lộ niềm đam mê đặc biệt với âm nhạc, hát các ca khúc nổi tiếng và thậm chí tự sáng tác nhạc. Cô đã từng tham gia Lễ hội Âm nhạc Mamaia năm 2009. Quản lý của cô là Marcel Prodan và Andrei Nemirschi. Alexandra được thế giới biết đến nhờ single đầu tay "Lollipop", cô xuất hiện rất nhiều trên các đài radio và chương trình truyền hình tại România. Single thứ hai của cô, "Mr. Saxobeat", cũng nhanh chóng trở thành bản hit số 1. Mr. Saxobeat chạm tới vị trí số 1 trên các bảng xếp hạng âm nhạc quốc tế và trụ hạng được nhiều tuần liền. Chuyến lưu diễn đầu tiên của cô tại Pháp vào đầu năm 2011.[2]

2009-hiện tại: Saxobeats

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 2009, Stan phát hành single quảng bá đầu tay của cô, "Lollipop".[3] Ca khúc ra mắt cuối năm 2009 nhưng đã được phát sóng dày đặc trên một số kênh radio lớn của Đức vào đầu năm 2010. Mùa hè năm 2010, cô ra mắt ca khúc "Show Me The Way" và tổ chức lưu diễn tại România. Vào tháng 9 năm 2010, Stan ra mắt ca khúc thứ hai của cô "Mr. Saxobeat". Chỉ chưa đến hai tháng, ca khúc trở thành bản hit thành công nhất của cô tại România, đạt vị trí số 1 tại bảng xếp hạng Romanian Top 100 và duy trì vị trí này tám tuần liên tiếp.[4] Ca khúc đã thành công về doanh thu trên toàn thế giới. Vào đầu năm 2011, nó lọt vào bảng xếp hạng Spanish Singles Chart và nằm trong top mười của bảng xếp hạng French Singles Chart, cũng như Canadian Hot 100. Ca khúc giành vị trí số 1 tại Ý và Đan Mạch, sau đó là tại Slovakia, Hungary và Ba Lan. Vào cuối tháng 5, "Saxobeat" trở thành ca khúc Romani đầu tiên đạt vị trí số 1 tại Đức sau "Dragostea din Tei" (2004). Bài hát giữ vị trí số 1 tại Áo, Đức và Thụy Sĩ trong 20 tuần. Sau thành công của "Mr. Saxobeat", Stan phát hành "Get Back". Nó đạt vị trí số 1 tại Slovakia, thứ tư tại Romanian Top 100, thứ tám tại Phần Lan và nằm trong top 20 tại hơn năm quốc gia. Ca khúc "Lollipop" được phát hành lại dưới dạng số dành cho thị trường thế giới nhưng không đạt được thành công. Vào mùa hè 2011, Stan phát hành một single khác, "Million", kết hợp cùng rapper lừng danh người Zimbabwe Carlprit. Vào ngày 29 tháng 8 năm 2011, Stan phát hành album đầu tay của cô, tựa đề Saxobeats. Bao gồm 8 bài hát và năm bản remix. Album được phát hành đầu tiên tại Pháp, sau đó là Đức, Thụy Sĩ, Na Uy, Tây Ban Nha, Ba Lan Và Ý.[5][6] Nó được phát hành tại Mỹ và Canada vào 25 tháng 10, thông qua Ultra Records. Tuy nhiên nó chưa được phát hành tại Anh. Stan đạt được nhiều giải thưởng nhờ "Mr. Saxobeat", bao gồm danh hiệu bạch kim tại Úc[7]Tây Ban Nha,[8] Đan Mạch,[9] Thụy Điển[10]Ý.[11] Tại lễ trao giải Romanian Music Awards năm 2011, cô giành được hai đề cử cho "Mr. Saxobeat" ("Best Dance" và "Best Song", chiến thắng ở mục thứ hai) hai phiếu tán thành ở hạng mục "Best Female" và chiến thắng "Borderbreaker Award". Cô cũng được đề cử và giành danh hiệu Best European Act tại MTV Europe Music Awards năm 2011. Vào năm 2012, Alexandra Stan giành thắng lợi tại EBBA-award.

Vụ Marcel Prodan

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 6 năm 2013, cô đã phải nhập viện và các buổi biểu diễn bị hủy bỏ. Ban đầu người quản lý xác nhận cô ấy bị tai nạn, nhưng sau đó cô đã tố cáo người quản lý của mình, Marcel Prodan, vì đã hành hung cô.[12] Vào ngày 18 tháng 6, Alexandra Stan đã điền vào đơn tố cáo Prodan về tội tống tiền. Cô dự định thêm tội "gây thương tích thân thể" và "chiếm đoạt tài sản vào đơn kiện".[13] Album mới của cô dự định sẽ phát hành vào tháng 9 năm 2013, nhưng do sự cố với quản lý nên đã bị hoãn lại. Cô được cảnh sát lấy lời khai vài ngày sau vụ tấn công, trong khi còn đang ở trong bệnh viện.[14] Theo các nguồn từ Romani, cô đã quyết định tạm dừng sự nghiệp của mình để nghỉ ngơi.

Tái xuất và tương tai

[sửa | sửa mã nguồn]

Album mới nhất của Alexandra có tên "Thanks For Leaving" sẽ được phát hành vào 28 tháng tư.

Danh sách đĩa nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc

[sửa | sửa mã nguồn]

Hát chính

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Ca khúc Album
2009 "Lollipop (Param Pam Pam)" Saxobeats
2010 "Mr. Saxobeat"
2011 "Get Back (ASAP)"
"1.000.000 (One Million)" (featuring Carlprit)
2012 "Lemonade" Non-album singles
"Cliche (Hush Hush)"
2013 "All My People" (vs. Manilla Maniacs)
2014 "Thanks For Leaving" TBA

Hợp tác

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Ca khúc Album
2013 "Baby, it's OK" (Follow Your Instinct featuring Alexandra Stan) Non-album single
2014 "Inima de Gheata" (Trupa Zero featuring Alexandra Stan) TBA

Các giải thưởng và đề cử

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Giải thưởng Danh mục Người nhận Kết quả
2011 2011 MTV Europe Music Awards "Best Romanian Act" "Alexandra Stan" Đoạt giải
"Best European Act" "Alexandra Stan" Đề cử
European Border Breakers Award[15] "European Border Breakers Award" "Alexandra Stan" Đoạt giải
2012 RRA Awards "Best Pop-Dance Song" "Get Back (ASAP)" Đoạt giải
Romanian Music Awards "Best Female" "Alexandra Stan" Đoạt giải
"Best Album" "Saxobeats" Đề cử

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ allmusic.com Alexandra Stan profile
  2. ^ “Artist | Alexandra Stan”. alexandrastan.ro. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2012.
  3. ^ “Video | Alexandra Stan – Part 3”. alexandrastan.ro. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2011.
  4. ^ “Top 29 piese romanesti (saptamana 8 – 14 noiembrie)” (bằng tiếng Hà Lan). urban.ro. ngày 16 tháng 11 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2011.
  5. ^ “Saxobeats - Alexandra Stan - empik.com”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2011.
  6. ^ “L'ALBUM DI ALEXANDRA STAN SARA' IN TUTTI I MIGLIORI NEGOZI DI DISCHI DAL 27 SETTEMBRE 2011!!!!”. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2011.
  7. ^ “Top 50 Singles Chart – Australian Record Industry Association”. Ariacharts.com.au. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2011.
  8. ^ “Top 50 Canciones” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). PROMUSICAE. Week 21, 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 19 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  9. ^ “Certificeringer | ifpi.dk” (bằng tiếng Đan Mạch). IFPI Danmark. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2011.
  10. ^ “Veckolista Singlar – Vecka 27”. Sverigetopplistan. GLF. ngày 8 tháng 7 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2011.
  11. ^ “FIMI certifications” (PDF). fimi (bằng tiếng Ý). FIMI Italy. ngày 8 tháng 5 năm 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2011.
  12. ^ “Alexandra Stan, desfigurată după ce ar fi fost bătută de manager - FOTO”. Mediafax.ro. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
  13. ^ “Alexandra Stan a depus o plangere pentru santaj: "Nu dau inapoi". Prodan risca 6 ani de inchisoare”. stirileprotv.ro. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
  14. ^ “Alexandra Stan, audiată de poliţişti pe patul de spital”. Click. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
  15. ^ “Another Border Breaker...”. Alexandra Stan's Official Page. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Giải thưởng
Tiền nhiệm
Inna
Quán quân Giải Âm nhạc châu Âu của MTV
2011
Phục vụ bên cạnh: Best Romania Act
Kế nhiệm
Martin Vunk
Tiền nhiệm
Inna
Quán quânEuropean Border Breakers Award
2012
Phục vụ bên cạnh: Romania
Kế nhiệm
Unsurpassed
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Chủ nghĩa khắc kỷ trong đời sống
Chủ nghĩa khắc kỷ trong đời sống
Cuộc sống ngày nay đang dần trở nên ngột ngạt theo nghĩa đen và nghĩa bóng
Giới thiệu TV Series Jupiter's Legacy
Giới thiệu TV Series Jupiter's Legacy
Jupiter's Legacy là một loạt phim truyền hình trực tuyến về siêu anh hùng của Mỹ do Steven S. DeKnight phát triển
Mẫu ấm trầm ca Vila - Genshin Impact
Mẫu ấm trầm ca Vila - Genshin Impact
Chia sẻ vài hình ảnh về villa
Pokémon Sword/Shield – Golden Oldies, những bản nhạc của quá khứ
Pokémon Sword/Shield – Golden Oldies, những bản nhạc của quá khứ
Game chính quy tiếp theo của thương hiệu Pokémon nổi tiếng, và là game đầu tiên giới thiệu Thế Hệ Pokémon Thứ Tám