Alone in the Dark II

Alone in the Dark II
Áp phích của phim
Đạo diễn
Tác giả
  • Michael Roesch
  • Peter Scheerer
Dựa trênLoạt Alone in the Dark
của Infogrames
Sản xuất
Diễn viên
Quay phimZoran Popovic
Dựng phimJoe Pascual
Âm nhạcJessica de Rooij
Hãng sản xuất
Phát hành
Công chiếu
  • 25 tháng 9 năm 2008 (2008-09-25) (Đức)
  • 26 tháng 1 năm 2010 (2010-01-26) (Mỹ)
Thời lượng
87 phút
Quốc gia
  • Hoa Kỳ
  • Đức
Ngôn ngữtiếng Anh
Doanh thu$133,867

Alone in the Dark II là một phim kinh dị Mỹ-Đức năm 2008 do Peter ScheererMichael Roesch đạo diễn và có sự tham gia của Rick Yune, Rachel SpectreLance Henriksen. Đây là phần tiếp theo của bộ phim Alone in the Dark năm 2005 của Uwe Boll, mặc dù có một dàn diễn viên hoàn toàn mới và một câu chuyện không liên quan với phim gốc.

Alone in the Dark II được quay ở thành phố New York và Los Angeles. Phim dựa trên loạt trò chơi điện tử Alone in the Dark của Infogrames.

Nội dung

[sửa | sửa mã nguồn]

Cựu thợ săn phù thủy Abner Lundberg (Lance Henriksen) buộc phải trở lại chiến đấu với kẻ thù cũ, một phù thủy nguy hiểm trăm năm tuổi, một lần nữa. Lần này, Lundberg gia nhập lực lượng vơí Edward Carnby (Rick Yune), người cố gắng để tìm cách bắt phù thủy nguy hiểm Elisabeth Dexter (Alison Lange).

Diễn viên

[sửa | sửa mã nguồn]

Phát hành và tiếp nhận

[sửa | sửa mã nguồn]

Phim phát hành tại Đức ngày 25 tháng 9 năm 2008, tại Anh ngày 27 tháng 7 năm 2009[1] và ở Hoa Kỳ ngày 26 tháng 1 năm 2010.[2] Bản phát hành Blu-ray của Mỹ được Best Buy bán độc quyền.[3]

Đánh giá phim từ IGN, RL Shaffer viết: Alone in the Dark của Uwe Boll không cần phần tiếp theo. Các nhà phê bình ghét bộ phim. Người hâm mộ ghét bộ phim... Tuy nhiên, rất may, Alone in the Dark II thực sự là một bộ phim hay hơn nhiều so với phần đầu tiên. Dù không có điểm nhấn về mặt hành động và bối cảnh là hạn chế hơn nhiều về mặt thiết kế sản xuất, nhưng giai điệu phù hợp hơn với ý tưởng của loạt trò chơi... Hãy xem Alone in the Dark II giống như một phần khởi động lại hơn là phần tiếp theo và nó sẽ ỔN."[4]

Nhà phê bình trên YouTubeJim Sterling đã đánh giá bộ phim cùng với Conrad Zimmerman trên podcast của họ, nhận xét rằng bộ phim quá khủng khiếp đến mức khó tin rằng có thể có bộ phim nào tệ hơn.[5]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Creepy, Uncle. “Alone in the Dark 2 Trailer Should Have Remained Alone”. DreadCentral. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2021.
  2. ^ Foywonder (ngày 12 tháng 4 năm 2009). “Rejoice! Alone in the Dark II on DVD in January”. DreadCentral. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2021.
  3. ^ Calonge, Juan (ngày 28 tháng 1 năm 2010). “Alone in the Dark II Blu-ray Best Buy Exclusive (Correcting and Replacing)”. blu-ray.com. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2021.
  4. ^ Shaffer, R. L. (Ngày 26 tháng 1 năm 2010). “Alone in the Dark II DVD Review”. IGN. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2021.
  5. ^ Jimquisition. “The Spin-Off Doctors: Alone In The Dark 2”. Soundcloud. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Giới thiệu AG Priscilla - Anti AoE and Penetration tanker
Giới thiệu AG Priscilla - Anti AoE and Penetration tanker
Priscilla là một tanker lợi hại khi đối mặt với những kẻ địch sở hữu khả năng AOE và AOE xuyên giáp như Mami, Madoka, Miki
[Các tộc bài] Runick: Tiếng sấm truyền từ xứ sở Bắc Âu
[Các tộc bài] Runick: Tiếng sấm truyền từ xứ sở Bắc Âu
Trong sử thi Bắc Âu, có một nhân vật hiền triết cực kì nổi tiếng tên là Mímir (hay Mim) với hiểu biết thâm sâu và là 1 kho tàng kiến thức sống
Tổng quan về EP trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
Tổng quan về EP trong Tensei Shitara Slime Datta Ken
EP có nghĩa là Giá Trị Tồn Tại (存在値), lưu ý rằng EP không phải là ENERGY POINT như nhiều người lầm tưởng
Giới thiệu AG Mega Armor Mel - Giant Gospel Cannon
Giới thiệu AG Mega Armor Mel - Giant Gospel Cannon
Nhìn chung Mel bộ kỹ năng phù hợp trong những trận PVP với đội hình Cleaver, khả năng tạo shield