Anhydride | |
---|---|
Thông tin chung | |
Thể loại | Khoáng vật sulfat |
Công thức hóa học | Calci sunfat:CaSO4 |
Phân loại Strunz | 07.AD.30 |
Phân loại Dana | 28.3.2.1 |
Hệ tinh thể | Trực thoi - Tháp đôi |
Nhóm không gian | Trực thoi 2/m 2/m 2/m |
Ô đơn vị | a = 6.245(1) Å, b = 6.995(2) Å, c = 6.993(2) Å; Z = 4 |
Nhận dạng | |
Màu | Không màu đến xanh nhạt hoặc tím nếu trong suốt; đỏ, nâu mờ hoặc xám nếu chứa tạp chất |
Dạng thường tinh thể | Hiếm gặp tinh thể ở dạng tấm và lăng trụ. Thường tồn tại ở dạng mạch sợi song song, tan vỡ thành các mảnh cát khai. Cũng có thể tồn tại ở dạng các khối hạt, kết hạch, đá khối. |
Song tinh | Đơn giản hoặc lặp lại ở mặt {011}, phổ biến; liên kết đôi ít gặp ở mặt {120} |
Cát khai | [010] hoàn hảo, [100] hoàn hảo, [001] tốt; |
Vết vỡ | Dạng vỏ sò |
Độ bền | Giòn |
Độ cứng Mohs | 3.5 |
Ánh | Ánh ngọc trai ở mặt {010}, ánh thủy tinh đến ánh mờ ở mặt {001}; ánh thủy tinh ở mặt {100} |
Màu vết vạch | Trắng |
Tính trong mờ | Mờ đến trong suốt |
Tỷ trọng riêng | 2.97 |
Thuộc tính quang | Hai trục (+) |
Chiết suất | nα = 1.567 - 1.574 nβ = 1.574 - 1.579 nγ = 1.609 - 1.618 |
Khúc xạ kép | δ = 0.042 - 0.044 |
Đa sắc | Đa dạng dưới tia cực tím; X = không màu cho đến màu hồng hoặc vàng nhạt; Y = tím nhạt hoặc hồng; Z = tím. |
Góc 2V | 56 - 84° |
Tính nóng chảy | 2 |
Các đặc điểm khác | Một số mẫu vật phát huỳnh quang, một số khác phát huỳnh quang sau khi đun nóng |
Tham chiếu | [1][2][3][4] |
Anhydride là một khoáng vật sulfat calci khan, CaSO4. Nó kết tinh theo trực thoi, với ba mặt cát khai hoàn hảo song song với ba mặt phẳng hình học. Nó không đồng hình với bari sulfat (barit) trực thoi và stronti sulfat (calestin), điều mà có thể được dự đoán từ công thức hóa học. Khối tinh thể riêng biệt rất hiếm, thường thì khoáng vật này chỉ tồn tại ở dạng các khối cắt. Độ cứng là 3,5 và trọng lượng riêng là 2,9. Màu sắc trắng, đôi khi hơi xám, hơi xanh hoặc tím. Ở mặt cát khai, ánh ngọc trai, các mặt khác có ánh thủy tinh. Khi tiếp xúc với nước, anhydride chuyển thành dạng thạch cao, (CaSO4·2H2O), bởi quá trình hấp thụ nước. Anhydride thường có mặt với calcit, halit, và lưu huỳnh cũng như là galen, chalcopyrit, molybdenit và pyrit trong các mỏ khoáng.
Anhydride thường được tìm thấy cùng với thạch cao trong các mỏ đã bốc hơi nước. Nó được phát hiện lần đầu năm 1794 ở một mỏ muối gần Hall ở Tirol. Ở độ sâu này, bề mặt anhydride đã bị chuyển thành thạch cao bởi sự hấp thụ từ nước ngầm.
Trong dung dịch calci sulfat, các tinh thể thạch cao tồn tại, nhưng khi dung dịch chứa dư natri hoặc kali clorit, anhydride sẽ được tạo thành khi trên 40 °C. Đây là một trong những cách để thu được khoáng vật nhân tạo, và tương tự như sự hình thành trong tự nhiên, khi mà khoáng vật tồn tại ở các bể muối.
Anhydride tồn tại trong môi trường bãi thoái triều ở vùng Vịnh qua quá trình thay thế kết hạch tạo đá. Anhydride kết hạch xuất tồn tại như phần thay thế cho thạch cao trong môi trường đá trầm tích.[5]
Lượng lớn anhydride tồn tại khi các vòm muối tạo thành đá khối. Anhydride tồn tại 1-3% trong các vòm muối và hình thành các lớp phủ ở trên đỉnh muối khi halit bị nước lỗ hổng rửa trôi. Đá phủ điển hình là muối, trên cùng phủ bởi một lớp anhydride, đắp trên nữa là thạch cao, tiếp theo là một lớp calcit.[6] Sự tiếp xúc với dầu có thể làm giảm SO4 tạo thành calcit, nước và hydro sulfide(H2S).[7]
Tên gọi Anhydride được đặt bởi A. G. Werner vào năm 1804, bởi vì sự thiếu nước trong tinh thể, tương phản với sự có mặt của nước trong thạch cao.