Awaruit | |
---|---|
Awaruit ở quận Josephine, Oregon, USA | |
Thông tin chung | |
Thể loại | Khoáng vật tự sinh |
Công thức hóa học | Ni2Fe đến Ni3Fe |
Phân loại Strunz | 01.AE.20 kim loại và hợp kim bán kim |
Phân loại Dana | 01.01.11.04 Nguyên tố tự sinh: sắt - niken |
Hệ tinh thể | Lập phương Hexoctahedral H-M Symbol (4/m32/m) nhóm không gian: P m3m |
Nhận dạng | |
Màu | trắng bạc đến trắng xám |
Dạng thường tinh thể | khối; cục, hạt và mảnh; hiếm thấy tinh thể; xâm tán hoặc phát triển song tinh với kamacit trong meteorit |
Độ bền | dễ dát mỏng và linh hoạt |
Độ cứng Mohs | 5,5 -6 |
Ánh | kim loại |
Tính trong mờ | mờ |
Tỷ trọng riêng | 7,8–8,65 |
Các đặc điểm khác | từ tính mạnh |
Tham chiếu | [1][2][3] |
Awaruit là một dạng hợp kim tự nhiên của niken và sắt có công thức hóa học từ Ni2Fe đến Ni3Fe.
Awaruit xuất hiện ở dạng sa khoáng trong sống có nguồn gốc từ peridotit và ophiolit bị serpentin hóa. Nó cũng là thành phần hiếm trong thiên thạch. Nó xuất hiện cộng sinh với vàng tự sinh và magnetit trong sa khoáng; với đồng, heazlewoodit, pentlandit, violarit, cromit, và millerit trong peridotit; với kamacit, allabogdanit, schreibersit và graphit trong thiên thạch.[1]
Khoáng vật này được miêu tả đầu tiên năm 1885 khi nó xuất hiện dọc theo sông Gorge, Awarua Bay South Island, New Zealand, nó chỉ xuất hiện ở dạng địa phương.[1][2]
Awaruit cũng được gọi là josephinit trong các mẫu bắt gặp ở quận Josephine, Oregon, ở đây chúng có dạng cục sa khoáng trong các lòng suối và dạng khối trong các đá bị serpentin hóa của Josephine peridotit. Một số mẫu chứa andradit granat.[4]