Bữa | Thức ăn nhẹ |
---|---|
Xuất xứ | Miền Bắc Việt Nam |
Vùng hoặc bang | Các vùng, miền ở Việt Nam |
Thành phần chính | Bột gạo, bột năng và vôi tôi |
Món ăn tương tự | Bánh bèo, bánh nậm |
Bánh đúc là một loại bánh của Việt Nam, thường được làm bằng bột gạo (tại miền Bắc và miền Trung) hoặc bột năng (miền Nam) với một số gia vị. Bánh được làm thành tấm to, khi ăn thì cắt nhỏ thành miếng tùy thích.
Là món ăn dân dã thịnh hành khắp ba miền, bánh đúc ăn giòn, mát, mịn[1], no bụng mà lại dễ tiêu[2], dễ làm và giá thành cũng rất rẻ. Không chỉ được ăn như một thức quà quê, bữa ăn sáng mà điển hình là bánh đúc chấm tương, bánh đúc cũng có thể ăn kèm với canh riêu cua, rau thơm, mắm tôm, mật ong, mật mía, mứt trái cây và thậm chí cả cá kho, thịt kho tùy thích[1]. Từ loại bánh đúc thuần túy chỉ được bằng bột gạo pha với nước vôi trong ngai ngái mùi vôi, bánh đúc cũng đã có nhiều biến tấu như bánh đúc cẩm thạch, bánh đúc lạc, bánh đúc dừa, bánh đúc ngô v.v.
Quy trình thực hiện bánh đúc, dù với nhiều biến thể, về cơ bản bao gồm 3 công đoạn: làm nước ngâm gạo, chuẩn bị bột và đun bánh. Dưới đây chỉ trình bày món bánh đúc bột gạo, là món cơ bản và phổ biến nhất trong họ bánh đúc.
Nước ngâm gạo được làm bằng nước vôi trong hoặc nước tro. Vôi tôi (loại vôi mềm nhuyễn để trộn vữa xây nhà, và các cụ ở Việt Nam ngày xưa thường dùng ăn trầu) được pha với nước, thường với tỷ lệ 1 lít nước 10g vôi[1]. Khuấy đều để lắng và chắt lấy nước vôi trong. Với nước tro, người ta thường lấy tro bếp, loại tro đun củi hoặc lá cây không lẫn tạp chất của các loại nhiên liệu khác, sàng sảy thật kỹ và hòa vào nước ngâm gạo. Một số nơi cầu kỳ còn sử dụng các loại cành xoan, cành bưởi, lá si, dây tầm gửi v.v. để đốt thành tro và lấy tro đó hòa nước.
Chọn loại gạo ngon, tùy loại gạo sẽ quyết định chất lượng bánh (độ dai, giòn, nở; màu sắc; hương vị). Gạo được vo, đãi sạch và ngâm trong nước vôi trong hoặc nước tro đã nói ở trên trong một thời hạn nhất định có thể mười tiếng đồng hồ hoặc vài ngày (tùy địa phương, tùy loại gạo) cho đến khi tay bóp hạt gạo thấy bở tơi. Sau đó gạo được đem xay lẫn với nước cho ra bột nước. Bột lại xay đi xay lại vài lần cho đến khi thật nhuyễn mịn và sau đó còn được lược qua rây cho sạch tạp chất.
Để tạo độ dai giòn của bánh có khi người ta còn dùng cả hàn the hòa lẫn vào bột dù rằng đây là phụ gia không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm[3][4].
Nồi được láng một chút mỡ nước để bột không dính đáy, đổ bột vào và bắc lên bếp đun nhỏ lửa, khuấy thật đều tay và liên tục sao cho bột không vón, không khê, không sát nồi, cho đến khi bột trong nồi đặc sệt lại, trở nên trong mượt, hớt một đũa bột lên thấy bột chảy xuống không dính đũa[2], thì tắt bếp. Rất thường thấy bánh đúc bột gạo này còn kết hợp với lạc nhân luộc chín bóc vỏ và cơm dừa xắt vụn. Khi đó lạc và dừa được thêm vào nồi bột trước thời điểm nhấc nồi xuống.
Dùng dầu ăn, nước mỡ lợn hoặc chút óc lợn tán nhuyễn thoa đều lên lòng một cái đĩa to, hoặc các khuôn bánh. Đổ bột vào với độ dày khoảng 3–5 cm. Để nguội thành phẩm sẽ đông cứng lại và có thể xắt miếng để ăn kèm các thực phẩm khác (tương, mật, cá kho, canh cua, đậu phụ rán, thịt lợn luộc v.v.).
Đây là cách nói bóng bẩy ủng hộ chuyện gái trai của lớp trẻ. Dùng để đáp lại người nào tuổi đã già, thời trẻ đã qua, thấy mình thiệt thòi, hay lên giọng phê phán dạy đời. Bánh đúc đã đổ ra sàng thì mời cả làng, ai ăn chẳng được. Con gái, con trai đến thì đến lứa thì phải có chuyện yêu đương, miễn là thuận lòng, thuận ý, cớ gì cứ phải "nâng tầm quan điểm"
Ý nói bánh ở đấy ngon, đáng đồng tiền mua. Làng Điền là một làng thuộc xã Tam Hiệp, huyện Phúc Thọ, Hà Nội.
Hai đặc sản, trong đó chợ Chay thuộc Hà Tây cũ.
Đổng thuộc thuộc huyện Thạch Thất, Hà Nội. Ý quảng cáo cho các sản phẩm của những địa điểm đó.
Bánh đúc ăn 3 người thì có vẻ ngon. Cũng như cách nói "chè tam, tửu tứ".
Ý nói ăn bánh đúc với cá kho thì ngon đến nghiện tới mức hết tiền phải bán bò mà trả nợ.
Hoán dụ đúc kết kinh nghiệm về mối quan hệ "mẹ kế (dì ghẻ) - con riêng của chồng".
Lời bình luận về món bánh đúc của nhà văn Vũ Bằng trong cuốn Miếng ngon Hà Nội.