Tam Hiệp
|
||
---|---|---|
Xã | ||
Xã Tam Hiệp | ||
Tên khác | Kẻ Hiệp | |
Tên cũ | Hương Binh Hợp Tổng Thượng Hiệp | |
Hành chính | ||
Quốc gia | Việt Nam | |
Vùng | Đồng bằng sông Hồng | |
Thành phố | Hà Nội | |
Huyện | Phúc Thọ | |
Địa lý | ||
Tọa độ: 21°04′42″B 105°37′11″Đ / 21,0782°B 105,61984°Đ | ||
| ||
Tam Hiệp là xã thuộc huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Nằm cách trung tâm Thủ đô khoảng 25 km về phía tây, xã có vị trí địa lý thuận tiện bên quốc lộ 32 và sông Đáy; từng trực thuộc hay tiếp giáp các huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Quốc Oai và Thạch Thất. Từ thuở đầu công nguyên, nơi đây đã là một làng cổ có đông dân cư và cho đến nay vẫn còn nhiều dấu ấn lịch sử, văn hóa gắn với cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm xưa. Dưới tên gọi cũ là Binh Hợp và Thượng Hiệp, vùng đất này đã từng được sử sách nhắc tới trong những trận giao tranh quyền lực giữa các triều đại Lý − Trần hay Lê − Mạc. Trong kháng chiến trường kỳ, nơi đây cũng là một xã Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Còn trong thời bình, Tam Hiệp đã vươn lên phát triển kinh tế với làng nghề may truyền thống được thành phố công nhận.
Khởi đầu từ những năm bao cấp khó khăn, người dân làng Thượng Hiệp đã âm thầm khâu vá từng cái yếm dãi hay dải rút đem đi bán. Bước sang thời kỳ Đổi Mới, nghề may nhanh chóng được mở rộng với nhiều mặt hàng quần áo và thú nhồi bông; đưa nơi đây trở thành một trong những làng nghề trẻ nhất của tỉnh Hà Tây cũ và phát triển hàng đầu trong huyện Phúc Thọ. Trên đà tăng trưởng kinh tế, địa bàn xã đã được triển khai cùng lúc hai dự án cụm công nghiệp rộng hàng chục héc ta. Song song với nghề mới đó thì những giá trị xưa cũ ở đây vẫn được bảo tồn, như nghề làm cà dầm tương ở làng Hòa Thôn và nghề làm bánh đúc ở làng Đại Điền. Toàn xã cũng có 06 di tích lịch sử được xếp hạng cấp quốc gia, 03 di tích cấp tỉnh và nằm trong nhóm 17 làng nghề kết hợp du lịch tiềm năng của thành phố.
Xã Tam Hiệp có vị trí ở vào khoảng Km25, quốc lộ 32 trên đường từ Hà Nội đi Sơn Tây, cũng là nơi bắt đầu của tuyến tỉnh lộ 421.[1][2] Xã có tổng diện tích tự nhiên khoảng 560 ha, gồm hai phần địa giới tách rời và tiếp giáp với 07 xã lân cận là: Ngọc Tảo, Tam Thuấn, Hiệp Thuận (huyện Phúc Thọ), Phương Đình, Đồng Tháp (huyện Đan Phượng), Canh Nậu và Hương Ngải (huyện Thạch Thất).[3][4]
Cũng giống như huyện Phúc Thọ, xã Tam Hiệp có mùa hè nắng nóng, mưa nhiều; trong khi mùa đông lạnh và hanh khô. Nhiệt độ trung bình năm là 23 độ C, độ ẩm tương đối đạt 88% và có khoảng 1.000–1.200 giờ nắng mỗi năm. Nền địa chất của xã tương tự như phần lớn diện tích thành phố, thuộc hệ tầng Thái Bình kỷ Đệ Tứ, là loại đất phù sa trung tính, ít chua. Điểm đáng lưu ý ở đây là hàm lượng đồng và nickel cao ở mức ô nhiễm; có thể do tích tụ tự nhiên, vị trí gần mỏ sulfua hay hoạt động kỹ thuật.[5][6] Nguồn nước phục vụ hơn 350 ha đất nông nghiệp của xã rất dồi dào nhờ sông Đáy ở phía đông và kênh Cẩm Đình − Hiệp Thuận ở phía bắc, đưa nước sông Hồng vào.[4][7] Ngoài ra, một đoạn sông đào dẫn thủy nhập điền từ thời Pháp thuộc cũng chảy qua phía tây nam xã, nay gọi là kênh Tây Ninh.[8][9] Các làng trong xã vẫn có nhiều ao, giếng, tạo cảnh quan hài hòa trước cửa đình nhưng không còn được sử dụng cho mục đích sinh hoạt. Theo thống kê từ những năm 2000, phần lớn dân cư trong xã đều sử dụng nước mưa (96%) song song cùng nước giếng khoan (78%) với chất lượng chưa đạt chuẩn, một số nhiễm arsen và mangan dù đã có bể lọc, còn một số khác phải mua thêm nước từ doanh nghiệp do không khoan được.[10] Sau hai thập niên, cả xã hầu hết đều chuyển sang mua nước sạch,[a] nhưng việc cạnh tranh giữa hai đơn vị cung cấp lại dẫn đến tình trạng mất nước hoặc nước ô nhiễm.[12] Đến khi chỉ còn một doanh nghiệp đủ điều kiện pháp lý thì người dân đôi khi vẫn phải chịu cảnh "nước bẩn giá cao", không đạt các thông số amoni, nitrit và nitrat.[13][14]
Từ khoảng 500 năm TCN cho đến đầu công nguyên, vùng đất Tam Hiệp đã là một làng tập trung đông dân cư. Họ không chỉ có kỹ thuật đúc đồng mà còn biết nấu sắt để tạo ra lưỡi cuốc cùng nhiều nông cụ khác.[15] Bằng chứng là năm 1969, khi đào giếng trong nhà máy đường Tam Hiệp, các kỹ sư đã tìm thấy 05 rìu đá được mài nhẵn và 01 quan tài bằng gỗ thơm có tiết diện tròn. Năm 1972, khi san lò gạch cũ, người ta cũng nhặt được 01 rìu đồng, 01 giáo đồng và 03 mũi chông sắt. Đến năm 1983, các nhà nghiên cứu đã khai quật thêm nhiều hiện vật tại địa điểm khảo cổ học Quai Chè. Đây là một di chỉ cư trú trên diện tích rộng, tầng văn hóa khá dày và có những món đồ gốm Đường Cồ đặc trưng của thời kỳ Đông Sơn. Tuy nhiên, di chỉ này đến nay đã không còn do việc xây dựng nhà máy và khu dân cư.[1]
Mùa xuân năm 40, khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, tương truyền Tam Hiệp có ông Đỗ Năng Tế là thầy và tướng của Hai Bà.[16] Còn theo Văn bia chùa Thiệu Long ở hương Binh Hợp nước Đại Việt, khắc năm 1226 tại xã Tam Hiệp, thì Đỗ Năng Tế là nhân vật cuối thời Lý, đầu thời Trần.[17] Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1214, vua Lý Huệ Tông đã cùng thái hậu và ngự nữ chạy về Binh Hợp để tránh loạn.[18] Và theo Việt sử lược thì năm 1216, Hiển Tín Vương Nguyễn Bát làm phản, phá ấp Hợp nên tướng Đỗ Tế đã rút sang Đan Phượng.[19] Đỗ Tế ở đây hẳn là Đỗ Năng Tế và ấp Hợp là hương Binh Hợp.[20] Như vậy, ông là vị tướng thân thiết với Kiến Quốc Đại Vương Trần Tự Khánh và có chức quan Tiết cấp Nhập nội Thái tử. Ông được Tự Khánh khen là người "trí dũng trời sinh vì nước" rồi "trao cho trấn lớn Binh Hợp làm đất thang mộc". Sau khi mất, ông được dân tôn làm Thành hoàng và qua thời gian đã được truyền thuyết hóa thành nhân vật thời Trưng Vương.[21]
Nguyên nhân là bởi vùng đất này nằm giữa hai huyện Mê Linh và Chu Diên thời Hán.[b] Từ đê Quai Chè lên tới đền Hát Môn − nơi bắt đầu cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng − chỉ khoảng 8 km.[23] Vậy nên, trải qua hơn ngàn năm, những dấu ấn sâu đậm còn sót lại đã được liên kết với nhân vật lịch sử này. Hai tác giả Trường Phong và Nguyễn Du trên tạp chí Di Sản Văn Hóa đã coi đây là trường hợp thú vị, cho thấy độ vênh giữa lịch sử và tín nhiệm dân gian.[17] Bên cạnh đó, tên gọi khu vực này cũng đã có nhiều thay đổi, chồng chéo giữa các địa danh cổ thời Bắc thuộc.[c] Từ thời Đinh − Lý cũng chỉ ghi chép đơn vị hành chính cao nhất là đạo hay lộ Quốc Oai.[24] Tới thời Trần, tên hương Binh Hợp xuất hiện cùng với địa danh Đan Phượng, vốn thuộc châu Từ Liêm, lộ Đại La Thành.[d] Sang đầu thời Hậu Lê thì có ba lộ Quốc Oai Thượng, Trung, Hạ ở đạo Tây, sau gọi là thừa tuyên Quốc Oai và từ năm 1469 thì có phủ Quốc Oai thuộc thừa tuyên Sơn Tây.[26]
Chưa rõ khi nào hương Binh Hợp được chia làm hai tổng Thượng Hiệp và Hạ Hiệp. Nhưng theo Đại Việt sử ký toàn thư thì vào tháng 12 năm 1591, hai tổng này là nơi triều đình nhà Mạc triệu tập binh mã từ 4 trấn, 4 vệ và 5 phủ, tổng cộng tới hơn 10 vạn quân. Trong đó có cả phò mã Mạc Ngọc Liễn thống lĩnh đạo Tây và vua Mạc Mậu Hợp đích thân đốc chiến, nhưng cuối cùng họ Mạc vẫn thua trước chúa Trịnh Tùng ở trận Phấn Thượng.[27] Còn theo thần phả đình Kim Giang, phường Đại Kim, quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội thì một trận chiến khác cũng từng xảy ra tại vùng đất này giữa tướng Mạo Giáp Hoa và quân Chiêm Thành.[28] Lúc này, cả hai tổng đều thuộc huyện Đan Phượng, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây − khu vực vốn có nhiều tù binh Chăm Pa cư trú.[29] Từ năm 1832, hai tổng được chuyển qua huyện Yên Sơn cùng phủ và từ năm 1892 thì trực tiếp thuộc phủ.[30][31] Đất Tam Hiệp khi ấy thuộc tổng Thượng Hiệp, dưới cấp tổng có 04 xã: Thượng Hiệp (thôn Thượng, thôn Hòa, thôn Đại Điền), Khánh Hiệp (thôn Mỹ Giang, thôn Miếu), Thuấn Nhuế (thôn Nội, thôn Trung, thôn Ngoại) và Hiệp Lũng.[32]
Từ năm 1930, ở làng Mỹ Giang đã có đảng viên Hoàng Văn Năng đứng lên tổ chức phong trào học sinh yêu nước, góp phần hình thành chi bộ cộng sản đầu tiên của tỉnh Sơn Tây.[33] Tổng Thượng Hiệp từ đó trở thành nơi Xứ ủy Bắc Kỳ thường qua lại và hội họp.[34] Trước cách mạng Tháng Tám, những hoạt động tuyên truyền đã diễn ra ở chợ Hiệp và tuần hành trên đê Quai Chè.[35] Về sau, dẫu cho Pháp đã xây một đồn bốt ngay tại làng Mỹ Giang,[36] dân quân du kích xã vẫn bí mật hoạt động với 120 người, trong đó có 15 cảm tử quân. Trải qua 20 trận đánh lớn và hàng trăm trận đánh nhỏ, lực lượng vũ trang xã đã thiết lập những trận địa lôi phá cầu trên sông Đáy, hạ 535 quân Pháp, bắt sống 20 người, gọi hàng 45 người, phá 6 xe quân sự và thu giữ nhiều vũ khí. Tổng kết cuộc kháng chiến, xã Tam Hiệp có 97 quân nhân, 270 dân công hỏa tuyến và chi viện 9 tấn gạo cho bộ đội. Nhiều cá nhân trong xã được tặng thưởng huân huy chương và tập thể xã cũng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.[37][38]
Phần này cần được mở rộng. Bạn có thể giúp bằng cách mở rộng nội dung của nó. |
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam và sau đó là hai cuộc chiến tranh biên giới, nhiều thế hệ thanh niên Tam Hiệp lại tiếp tục lên đường chiến đấu. Đồng thời, địa bàn xã cũng trở thành nơi sơ tán và đóng quân của một số đơn vị như Thông tấn xã Việt Nam[39]... Trải qua những thăng trầm của lịch sử, toàn xã Tam Hiệp có tổng cộng 22 Bà mẹ Việt Nam anh hùng, 164 liệt sỹ, 72 thương binh và 26 bệnh binh.[40] Tới những năm tháng thời bình cuối thế kỷ XX, một vụ sập nhà nguyện đã bất ngờ xảy ra tại làng Mỹ Giang. Trận mưa bão lớn vào mùa hè năm 1998 đã khiến công trình sụp đổ trong lúc các giáo dân đang hành lễ, khiến 08 người thiệt mạng và nhiều người khác bị thương.[cần dẫn nguồn] Cuối năm 2007, một vụ đột kích xới bạc lớn cũng diễn ra ở xã làm 05 người bị chết đuối và bắt giữ 56 người đến từ nhiều huyện thị khác.[41]
Mốc thời gian | Xã | Huyện | Tỉnh/thành phố |
---|---|---|---|
1954 | Tam Hiệp | Quốc Oai | Sơn Tây |
21/04/1965 | Hà Tây | ||
27/12/1975 | Hà Sơn Bình | ||
29/12/1978 | Hà Nội | ||
17/02/1979 | Phúc Thọ | ||
12/08/1991 | Hà Tây | ||
01/08/2008 | Hà Nội |
Trong chiến tranh Đông Dương, khu vực xã đã có nhiều sự thay đổi hành chính. Từ ngày 14 tháng 03 năm 1949, tổng Thượng Hiệp thuộc về quận Hoài Đức, tỉnh Hà Đông. Tới ngày 18 tháng 07 năm 1950, tổng được chuyển qua quận Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây và từ ngày 27 tháng 09 năm 1950 thì thuộc quận Phúc Thọ cùng tỉnh.[42] Sau năm 1954, xã Tam Hiệp chính thức được thành lập với 05 làng: Thượng Hiệp, Mỹ Giang, Đại Điền, Hòa Thôn và Hiệp Cát; nay chia thành 08 thôn theo số thứ tự để quản lý. Trong đó, 04 thôn đầu tiên là đất làng Thượng Hiệp, các thôn 5 và 6 thường gọi chung là Điền Hòa Cát, còn thôn 7 và 8 vốn là làng Mỹ Giang. Năm 1999, dân số xã Tam Hiệp là 9.154 người và đến năm 2015 đạt hơn 12.000 nhân khẩu. Cư dân trong xã hầu hết là người Kinh, có đạo Phật và một phần nhỏ theo Thiên Chúa.[3][40]
Tam Hiệp là tên gọi khi hợp nhất ba xã Thượng Hiệp, Khánh Hiệp và Hiệp Lũng của tổng Thượng Hiệp trước đây.[e] Vùng đất này có tên cổ xưa là Binh Hợp hay Binh Hiệp (兵合[44]: tạm dịch là nơi tụ hợp binh sĩ) ít nhất từ thời vua Lý Huệ Tông đến nay đã hơn 800 năm. Trong khi đó, dân gian thường gọi nơi này là Kẻ Hiệp[45] (協:[f] hòa hợp, giúp đỡ). Tục ngữ cũng có câu "động Mỹ Giang, cả làng vây chặt" cho thấy tinh thần đoàn kết của người dân ở đây, khi có trộm cướp thì tất cả đều cùng vây bắt.[47] Còn sách Đồng Khánh địa dư chí có lời bình rằng "các xã Hiệp Lũng, Khánh Hiệp [...] tập tục chuộng vũ dũng"[32] (tức chuộng võ, ưa sức mạnh, ngược với chuộng văn nhã). Về 05 làng trong xã ngày nay thì Thượng Hiệp (上: làng trên) là cái tên bấy lâu không thay đổi. Còn làng Hiệp Cát (吉: tốt đẹp) trước đây có tên là Hiệp Lũng hoặc Đăng Lũng; trong khi Hòa Thôn (和: hòa hợp) có tên cổ là Đáo.[48] Hai làng Mỹ Giang (美江: sông đẹp) và Đại Điền (大田: ruộng lớn) xưa cũng gọi theo tên Nôm là Sông và Ruộng, từ năm 1821 triều Minh Mạng mới đổi hẳn thành chữ Hán.[49] Làng Mỹ Giang ngày nay cũng chính là xã Khánh Hiệp xưa, bao gồm cả Miếu Thôn nay là xóm Miếu.[50]
Vị trí bên sông Đáy và quốc lộ 32 chạy qua đã tạo thuận lợi cho xã phát triển giao thương, dễ dàng tiếp cận các tuyến xe buýt 20A, 70A, 70B, 92 cùng nhiều xe tải và xe khách.[51][52] Từ xa xưa, chợ Hiệp đã là chợ lớn nhất của huyện Yên Sơn,[53] họp các phiên 3, 5, 8, 10, 13, 15, 18, 20, 23, 25, 28 và 30.[54] Ngày nay, các mặt hàng ở xã thường được buôn đến chợ Đồng Xuân rồi tỏa đi khắp các tỉnh.[45] Dân gian trong vùng đã có câu "khôn kẻ Ngái không bằng dại kẻ Hiệp"[55] hàm ý nói người dân nơi đây thường khá nhạy bén. Theo Sơn Tây tỉnh địa chí, tại xã từng có nghề quay tơ ở Hiệp Cát, Đại Điền[56] và trồng cà ở Hòa Thôn.[57] Còn cuốn Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ: nghiên cứu địa lý nhân văn của Pierre Gourou cho biết làng Hiệp Cát cùng với làng Phú Nhi là hai làng có nhiều người kéo xe nhất tỉnh Sơn Tây.[58] Trong khi đó, làng Hòa Thôn có thêm nghề hớt và bán cá bột,[59] còn làng Đại Điền được xếp vào nhóm làng đặc biệt quan trọng trong nghề làm bánh.[60] Tới năm 1964, xí nghiệp đường − giấy − rượu của tỉnh cũng được xây dựng tại đây, tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho người dân trong xã.[61] Trong giai đoạn 1976−1983, nhân dân Tam Hiệp cũng tích cực lao động sản xuất nông nghiệp và trở thành một trong 35 hợp tác xã của thành phố có năng suất lúa vượt 8 tấn/ha/năm.[62]
Kể từ những năm 2000 đến nay, nền kinh tế Tam Hiệp liên tục tăng trưởng và chuyển dịch tích cực. Tổng giá trị sản xuất toàn xã từ mức 32,9 tỷ đồng năm 2001 đã cán mốc 1.017,3 tỷ đồng sau đúng hai thập kỷ. Nếu như vào năm 2001, nông nghiệp chiếm tới 26,2% cơ cấu kinh tế thì đến năm 2005 đã giảm còn 18,6%. Mười năm sau đó, con số này tiếp tục giảm còn 9,4% và đến năm 2021 lại giảm thêm một nửa còn 4,7%. Thu nhập bình quân đầu người trong xã đã tăng khoảng 11 lần trong 18 năm qua, từ mức 6,7 triệu đồng/người/năm (2005) lên 76,8 triệu đồng/người/năm (tháng 6 năm 2023), cao hơn mức trung bình của huyện Phúc Thọ (70 triệu đồng/người/năm, tháng 3 năm 2024).[63][40][64][65][66] Theo thống kê năm 2018, toàn xã Tam Hiệp có 50 doanh nghiệp, 650 hộ sản xuất công nghiệp − tiểu thủ công nghiệp và 572 hộ thương mại − dịch vụ.[67] Tính đến năm 2021, cả xã chỉ còn 3 hộ nghèo (chiếm 0,08%) trong khi nhiều hộ dân khác đã trở nên giàu có với thu nhập có thể lên tới hàng tỷ đồng mỗi năm.[68][64]
Được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới từ năm 2014,[40] đến nay xã Tam Hiệp đã quy hoạch thêm các khu đất ở đấu giá với mức khởi điểm khá cao, phản ánh phần nào sự sôi động nơi đây.[69][70][71] Khu vực phía tây xã là hai dự án cụm công nghiệp Tam Hiệp (rộng 20,99 ha) và Nam Phúc Thọ (rộng 41,7 ha, bao gồm một phần thuộc xã Ngọc Tảo) đều khởi công vào năm 2024 với tổng mức đầu tư gần 1.234 tỷ đồng. Các công trình được kỳ vọng sẽ tạo động lực phát triển chung cho cả xã và huyện, đồng thời giảm tải ô nhiễm môi trường làng nghề.[72][9] Bên cạnh đó, xã cũng có một phần diện tích phía bắc thuộc quy hoạch Vườn sinh thái Cẩm Đình − Hiệp Thuận, nhưng đã chậm tiến độ từ năm 2008.[73] Vào năm 2020, dọc tuyến đê bên ngoài dự án này từng tồn tại con đường bích họa dài nhất Thủ đô, nhưng không được quan tâm bảo trì nên cũng đã xuống cấp sau ba năm.[74][75]
Nghề may ở Tam Hiệp đã manh nha từ những năm bao cấp. Để cải thiện đời sống khó khăn khi ấy, người dân làng Thượng Hiệp đã âm thầm thu mua vải vụn từ các xí nghiệp về rồi chắp vá và khâu tay những mặt hàng như: yếm dãi trẻ con, dây dải rút quần, xu chiêng, mũ biên phòng... xong lén đem đi bán.[76] Kể từ sau Đổi Mới, họ đã chuyển qua làm gia công cho các cơ sở may mặc ở Cổ Nhuế, Từ Liêm rồi dần vươn lên làm chủ. Đến năm 1997, tại xã xuất hiện thêm nhóm sản phẩm thú nhồi bông từ cơ sở Hoa Thái.[77] Bước sang thế kỷ XXI, các mặt hàng ở đây ngày càng đa dạng hơn, đủ cả quần áo trẻ em tới người lớn, đồ bảo hộ hay chăn nệm... Các xưởng may đã được nhân rộng ở tất cả 5/5 làng trong xã, đi cùng với đó là đủ loại dịch vụ: in ấn, thêu thùa, giặt là, vận tải, bán buôn bán lẻ, bán online... Các thành phẩm làm ra không chỉ phục vụ thị trường trong nước mà còn xuất khẩu đi Campuchia, Lào; tạo việc làm cho hàng nghìn nhân công trong xã và các huyện lân cận. Năm 2014, nghề may ở Tam Hiệp đạt doanh thu gần 300 tỷ đồng, đóng góp vào 90% cơ cấu thu ngân sách của xã. Đến năm 2021, các hộ làm nghề đã mang về khoảng 800−900 tỷ đồng.[78][79][80] Nhờ đó, Tam Hiệp đã trở thành tấm gương điển hình và thu hút nhiều cá nhân từ các làng xã khác tới học nghề. Tiêu biểu trong số đó là làng Táo ở xã Tam Thuấn kế bên cũng đã đón nhận danh hiệu Làng nghề Hà Nội vào năm 2024.[81]
Khi còn thuộc tỉnh Hà Tây cũ, nơi đây là một trong những làng nghề trẻ nhất[82] và được chọn vào nhóm 10 làng thí điểm du lịch của tỉnh.[83] Khi sáp nhập về Hà Nội, tuy cũng nằm trong 17 làng nghề kết hợp du lịch tiềm năng,[84] nhưng xã vẫn chưa thể áp dụng thành công mô hình này như hai làng gốm Bát Tràng và lụa Vạn Phúc.[85] Ngoài ra, làng nghề phát triển cũng đi kèm với lượng rác thải lên tới 10 tấn mỗi ngày vào năm 2016, trong đó chủ yếu là vải vụn.[86] Năm 2018, dù đã ký hợp đồng thu gom nhưng xã vẫn bị quá tải. Rác chất đống tại các bãi tập kết, tràn ra đường và vương vãi khắp ruộng khiến người dân ở đây phải châm lửa đốt bớt, gây ô nhiễm không khí.[87] Theo công bố của Ủy ban nhân dân thành phố năm 2023, làng nghề may Thượng Hiệp đang hoạt động mạnh và có hệ thống thu gom nước thải nhưng vẫn ở trong tình trạng ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.[88] Ngoài ra, ở Tam Hiệp vẫn còn một bộ phận làm hàng giả, nhái các thương hiệu nổi tiếng thế giới. Vậy nhưng các tiểu thương vẫn đến đây thu mua vì giá rẻ, mẫu mã và màu sắc bắt mắt. Do đó, vấn đề vẫn chưa thể giải quyết triệt để dù một vài chủ xưởng đã bị truy tố.[89][90]
Với nghề sản xuất và chế biến thực phẩm, xã có hai nhãn hiệu tập thể được công nhận là tương nếp và cà dầm tương Tam Hiệp.[91] Giống cà ở Hòa Thôn xưa đã được đánh giá có cùi dày, ít hạt, ăn ngon và giòn.[57] Trải qua quá trình chọn lựa kỹ càng và rửa sạch, cà bát được ướp muối 20 ngày rồi ép bỏ nước, lại ngâm tương suốt một năm mới hoàn thành. Về phần tương cũng được ủ kỹ từ gạo nếp và bột ngô theo cách gia truyền; nên khi ăn cà có vị mặn nhưng nuốt vào lại thấy ngọt hậu. Nhiều thế hệ người Việt Nam đều thuộc lòng câu thơ "Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương" nhưng chưa một lần tận mắt thấy món ăn này. Trong khi đó, mỗi năm cà chỉ ra 01 vụ và chỉ có 06 hộ gia đình trong xã sản xuất khoảng 1,5−2 tấn thành phẩm/hộ. Bởi những lý do đó, dù dân dã nhưng cà dầm tương Tam Hiệp vẫn trở thành đặc sản được đem đi biếu tặng, thậm chí bà con Việt kiều cũng về nước tìm mua.[92][93]
Nằm kế bên Hòa Thôn là làng Đại Điền nổi danh với nghề bánh trái từ lâu, được xếp vào nhóm 10 làng làm bánh quan trọng ở Bắc Kỳ xưa.[60] Người dân nơi này làm bán đủ món truyền thống như bánh lượt, bánh rợm, bánh tẻ, bánh hòn... và ngon hơn cả là món "bánh đúc làng Điền, góp tiền mà mua".[94] Đây vốn là một thức quà dân dã và đâu đâu cũng có thể tìm thấy, nhưng đặc sản của làng Điền lại mang hương vị riêng không thể lẫn. Những mẹt bánh trắng mịn, thanh mát và thơm dẻo; dù có giá cao hơn các nơi khác vẫn luôn đắt hàng vì “tiền nào của nấy".[95]
Bên cạnh các nghề tiểu thủ công nghiệp trên thì ở Tam Hiệp vẫn có một bộ phận làm nông nghiệp. Tính đến năm 2022, vùng Tam Hiệp, Tam Thuấn và Hiệp Thuận có tổng cộng 113 ha chuyên canh hoa và cây cảnh. Trong khi đó, tổng diện tích trồng bưởi và ổi của ba xã Tam Hiệp, Ngọc Tảo và Phụng Thượng đạt 83 ha.[96] Còn lại ở xã cũng trồng lúa nhưng một phần diện tích đã được chuyển đổi thành dự án cụm công nghiệp.[9] Với chăn nuôi, vùng Tam Hiệp, Ngọc Tảo và Thượng Cốc có tổng cộng 125 ha dành cho thủy sản. Bên cạnh đó, xã cũng có đàn lợn 3.920 con và đàn gia cầm 16.025 con. Khu chuồng trại chăn nuôi ở xã được quy hoạch tập trung trên diện tích 49,4 ha;[96] còn điểm giết mổ gia súc gia cầm rộng 0,5 ha. Từ năm 2013, mỗi ngày tại khu vực này đã xử lý khoảng 3 tấn thịt lợn và 1,5 tấn gia cầm.[97]
Xã Tam Hiệp xưa cũng giống như bao làng xã khác, đều có các tục lệ cổ mà đến nay vẫn có thể tìm thấy được như: Thượng Hiệp (9 điều, 25 lệ), Mỹ Giang (1 văn khoán, 38 lệ), Miếu Thôn (12 điều, 18 khoản, 1 lệ), Đại Điền (37 điều, 25 lệ), Hiệp Cát (56 điều, 142 lệ, 19 khoản thỏa thuận, 3 giao ước và 5 giao từ).[48] Đa phần các quy ước này vẫn tiếp tục được thực thi, nhất là trong các lễ nghi và việc làng. Nhưng đồng thời, người dân trong xã cũng đã thay đổi một số tập quán cũ để thực hiện theo nếp sống mới. Tiêu biểu là các đám tang, thay vì địa táng rồi cải táng, thì đã chuyển sang hỏa táng với tỷ lệ tăng dần: từ 47,45% năm 2018 lên 63,3% năm 2019.[98] Tính đến năm 2022, toàn xã Tam Hiệp đã có 7/8 thôn văn hóa với 3.125 hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa.[64] Dẫu là một miền quê chuộng võ, nhưng từ xưa đến nay xã vẫn có nhiều tấm gương học hành đỗ đạt. So với toàn huyện Phúc Thọ có 08 tiến sĩ Nho học,[99] thì riêng đất Khánh Hiệp cũ đã có 02 vị được lưu danh trên bia Văn Miếu Quốc Tử Giám là Nguyễn Đạo Hưng (đỗ Hoàng giáp năm 1493) và Nguyễn Doãn Tuy (có tên khác là Nguyễn Khắc Tuy, đỗ năm 1514).[100][101] Dưới triều Nguyễn, xã đã có tổng cộng 06 vị đỗ cử nhân (hương cống).[g] Còn ở thời hiện đại, Tam Hiệp cũng có 01 Nhà giáo ưu tú và theo thống kê chưa đầy đủ thì có 04 vị Phó giáo sư.[h] Công tác giáo dục ở xã luôn được quan tâm và đầu tư nên các trường Mầm non Tam Hiệp A, B, Tiểu học Tam Hiệp A, B và THCS Tam Hiệp trên địa bàn đều đã được xây mới hoặc cải tạo đạt chuẩn quốc gia.[112][113][114]
Phong trào thể dục thể thao ở Tam Hiệp cũng phổ biến với 39,3% dân cư tham gia thường xuyên.[115] Xã có 01 Trung tâm văn hóa thể thao,[116] 03 Nhà văn hóa ở các khu vực Thượng Hiệp, Mỹ Giang, Điền Hòa Cát; cùng 08 Nhà hội họp thôn dân cư... đáp ứng cơ bản nhu cầu sinh hoạt của người dân. Bên cạnh các câu lạc bộ bóng chuyền hơi, cầu lông hay dân vũ... thì bóng đá là môn thể thao được yêu thích hơn cả. Các giải đấu thường được tổ chức vào mùa xuân và trận chung kết sẽ diễn ra cùng với dịp lễ hội truyền thống của địa phương vào tháng 3 âm lịch hàng năm.[117] Trong những ngày hội, ngoài các hoạt động tế lễ và rước kiệu còn có các trò chơi dân gian như: đi cầu khỉ, đập niêu, chọi gà, kéo co...[16] Đặc biệt, câu lạc bộ Lân Sư Rồng của xã còn mang tới những màn trình diễn ấn tượng với hơn 40 hội viên chuyên nghiệp, từng nhiều lần phục vụ Lễ giỗ Tổ Hùng Vương tại Đền Hùng.[118][119] Ngoài ra, đời sống văn hóa của người dân Tam Hiệp cũng thêm phần phong phú nhờ câu lạc bộ thơ Hương Quê thành lập từ năm 1992 và từng được giới thiệu trên sóng Đài tiếng nói Việt Nam.[120]
Nằm ở vùng đất Xứ Đoài với bề dày lịch sử nên xã Tam Hiệp cũng có nhiều công trình tôn giáo và tín ngưỡng. Toàn xã có 10 chùa, 07 đình, 02 quán, 01 đền và 01 nhà nguyện.[40] Trong đó có 06 di tích quốc gia gồm: chùa Thiệu Long, đình Mỹ Giang, chùa Kim Hoa, quán Ngự, đình Thượng Hiệp và chùa Ba Giai. Ngoài ra, xã cũng có 03 di tích được xếp hạng cấp cấp tỉnh/thành phố là đình Hòa Thôn, chùa Hòa Thôn và đình Miếu Thôn.[121] Từ đê Quai Chè xuôi theo đường trục chính của xã sẽ đến được quán Ngự của làng Hiệp Cát và đình làng Thượng Hiệp − hai nơi cùng thờ vị thánh Tam Giang Bạch Hạc triều Hùng Vương. Trong đó, quán Ngự nằm dưới gốc cây đa cổ thụ vài trăm năm tuổi, gồm tiền tế 1 gian 2 chái nối với 3 gian hậu cung và vẫn lưu giữ được nhiều di vật chạm khắc mang phong cách thời Lê − Nguyễn. Còn đình Thượng Hiệp từng bị phá hủy trong kháng chiến và dựng lại năm 1948 với hai dãy nhà dải vũ 5 gian, giữa là tòa đại bái và sau cùng có 4 gian hậu cung tách biệt.[122] Ở về gần trung tâm xã hiện nay là chùa Kim Hoa, còn gọi là chùa Tổng, nghĩa là chùa chung của cả tổng Thượng Hiệp xưa. Tại đây có bia Tôn tạo Kim Hoa tự bi khắc năm 1579 cho biết chùa đã có từ trước và được người dân trùng tu năm 1578. Dựa vào bệ đá hoa sen kích thước 3x1,7x1,3m có thể thấy chùa đã tồn tại từ thời Trần.[123] Trong khuôn viên chùa có 5 gian tiền đường, 3 gian thượng điện, 5 gian nhà Tổ, khu tháp mộ và nhiều bảo vật như: 08 tấm bia đá, 01 quả chuông thời Tây Sơn cùng 20 pho tượng gỗ chủ yếu từ thời Lê trung hưng.[122]
Nhưng ngôi chùa cổ nhất ở Tam Hiệp có lẽ là chùa Thiệu Long, còn gọi là chùa Miếu do nằm ở xóm Miếu, làng Mỹ Giang. Tấm bia Thiệu Long tự bi ở chùa được ông Đỗ Năng Tế dựng vào năm đầu tiên của triều Trần (1226) với kích thước khoảng 1,35x0,8m. Bia được đặt trên lưng rùa, trang trí hình chim phượng và nhiều hoa văn ấn tượng. Lời bia khởi đầu bằng sự huyền diệu của thế giới và sự ra đời của Phật pháp, kế đến là công lao của vợ chồng ông và quá trình chọn đất dựng chùa.[21] Đặc biệt, chùa được mô tả với cách bố trí rất độc đáo, gồm một bức tượng Phật ở trung tâm, hai bên là tiên nữ Apsara và Đại Quyền [Tu Lí] Bồ Tát. Phía trước bàn thờ có tượng Hộ Pháp, bên trái là Kaundinya còn bên phải là Gandharva, cho thấy sự ảnh hưởng của Ấn Độ và Chăm Pa.[20] Nhưng qua thời gian, chùa đã được trùng tu thay đổi nhiều lần và đến nay gồm các công trình kiến trúc dạng chữ đinh (丁) như: 5 gian tiền đường nối với 3 gian thượng điện, nhà Tổ gồm 5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung... Trong chùa hiện chỉ còn giữ được một số hiện vật gồm 35 pho tượng tròn thời Lê − Nguyễn, 06 tấm bia, 01 quả chuông thời Nguyễn và 04 đôi lọ lục bình thời Thanh...[124] Điều đáng nói là bảo vật quý nhất của chùa − tấm bia cổ hiện đã bị xây bịt lại, cốt để củng cố thêm truyền thuyết về thời Trưng Vương.[125]
Dựa vào 01 cuốn thần phả, 09 đạo sắc phong còn giữ được từ thời Lê, 05 tấm bia đá cùng một số bảo vật khác tại đình Mỹ Giang có thể thấy quan niệm xem Đỗ Năng Tế là thầy và tướng của Hai Bà Trưng đã có từ lâu, được triều đình công nhận. Ông cùng ba bà phi được thờ phụng trong ngôi đình nằm giữa làng, nhìn về hướng nam với kiến trúc hình chữ công (工) gồm đại bái 3 gian 2 dĩ, trung đường 5 gian và hậu cung trạm trổ cầu kỳ.[126][17] Cách đó không xa là lăng mộ ông, tục gọi là quán Dậm, đã từng có loài cua đặc sản được xếp vào hạng "Sơn Tây tứ quý" (hay "Sơn Tây tứ dị") chỉ dùng để tiến vua.[127] Thậm chí còn có thuyết cho rằng quân lính của Đỗ Tướng Công sau khi hy sinh tại đây đã hóa thành loài cua này để đời đời được hầu hạ bên chủ tướng.[128] Là một trong bốn sản vật hiếm có của Xứ Đoài xưa, vậy nhưng từ giữa thế kỷ XX đến nay đã không còn ai trông thấy loài cua kỳ bành Khánh Hiệp nữa.[50]
Về chính trị và quân sự, Tam Hiệp xưa có vị tướng Đỗ Năng Tế có công với nhà Trần và được ban ấp thang mộc. Hương Binh Hợp của ông nay là 04 xã Tam Hiệp, Tam Thuấn, Hiệp Thuận và Liên Hiệp, rộng tới hơn 6.000 mẫu ruộng.[44][i] Ở đình Hạ Hiệp, xã Liên Hiệp cũng thờ vị Thành hoàng có tên gần giống ông là Đỗ Năng Đạo (thường gọi là Hoàng Đạo) và theo thần phả thì cả hai đều được cho là tham gia cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng năm xưa.[129] Trong đó, tên ông Đỗ Năng Tế được đặt cho hai con đường: một ở quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh và một ở quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng.[130][131] Còn ở thời hiện đại, xã Tam Hiệp có những cá nhân tiêu biểu như:
Về nghệ thuật, Tam Hiệp là quê ngoại, cũng là nơi sinh ra và lớn lên của nhạc sĩ Lê Việt Hòa (1935−2014).[136] Ông được truy tặng Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2017 nhờ những ca khúc Gửi em chiếc nón bài thơ, Nhớ Xứ Đoài...[137] Đây cũng là quê hương của Nghệ sĩ nhân dân Trần Hiếu (sinh năm 1936) và em trai ông là nhạc sĩ Trần Tiến (sinh năm 1947) đã nhận Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.[138][139] Ông Trần Tiến cũng có một sáng tác mang tên Quê nhà, tuy không nhắc trực tiếp tới hai chữ "Tam Hiệp", nhưng thoạt nghe ai cũng biết đó là miền "Xứ Đoài xa vắng". Bản thân ông cũng từng tâm sự rằng "chẳng bao giờ anh hát nổi bài ca anh viết về quê mình. Cứ hát lại khóc".[140]
|journal=
(trợ giúp)|url lưu trữ=
và |archive-url=
(trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |ngày lưu trữ=
và |archive-date=
(trợ giúp)|url lưu trữ=
và |archive-url=
(trợ giúp); Đã định rõ hơn một tham số trong |ngày lưu trữ=
và |archive-date=
(trợ giúp)