Cá bàng chài vây lưng dài

Iniistius dea
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Actinopterygii
Bộ (ordo)Labriformes
Họ (familia)Labridae
Chi (genus)Iniistius
Loài (species)I. dea
Danh pháp hai phần
Iniistius dea
(Temminck & Schlegel, 1845)
Danh pháp đồng nghĩa
  • Xyrichtys dea Temminck & Schlegel, 1845
  • Xirichthys margaritatus Fourmanoir, 1967

Iniistius dea, tên thông thường là bàng chài vây lưng dài[2][3], là một loài cá biển thuộc chi Iniistius trong họ Cá bàng chài. Loài cá này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1845.

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Từ định danh của loài cá này trong tiếng Latinh có nghĩa là "nữ thần", không rõ hàm ý đề cập đến điều gì, có lẽ ám chỉ đến màu sắc cơ thể của chúng[4].

Phạm vi phân bố và môi trường sống

[sửa | sửa mã nguồn]

I. dea có phạm vi phân bố thưa thớt trên Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Loài này đã được ghi nhận dọc theo bờ đông Ấn Độ; bờ biển Việt Nam (trừ bờ biển phía tây nam) đến bờ nam Trung Quốc; từ vùng biển Nam Nhật Bản trải dài đến đảo Đài Loanquần đảo Ogasawara; ở phạm vi phía nam, I. dea xuất hiện tại quần đảo Sunda Nhỏ và xung quanh bán đảo Đầu Chim (Indonesia); ngoài khơi phía bắc Tây Úc và dọc theo Queensland (Úc)[1][5].

I. dea chưa trưởng thành

I. dea sinh sống trên nền đáy cát ở độ sâu được ghi nhận tối thiểu là 50 m[1].

Chiều dài cơ thể tối đa được ghi nhận ở I. dea là 30 cm[5]. Trán dốc và cứng chắc là điểm đặc trưng của hầu hết các loài thuộc chi Iniistius. Điều này giúp chúng có thể dễ dàng đào hang dưới cát bằng đầu của mình.

Cơ thể có màu xám nhạt với ba dải sọc nâu mờ ở hai bên thân. Cá đực có một đốm đen nhỏ ở thân trên, bên dưới gai vây lưng thứ 5 và thứ 6. Mỗi vảy có một chấm màu xanh lam tạo thành các đường sọc ở thân dưới[6]. Cá con có màu nâu lốm đốm trắng với 2 đốm đen lớn ở vây lưng; gai vây lưng thứ nhất vươn dài.

Số gai ở vây lưng: 9; Số tia vây mềm ở vây lưng: 12; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây mềm ở vây hậu môn: 12; Số tia vây mềm ở vây ngực: 11 - 12[6].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ a b c Russell, B. (2010). Iniistius dea. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2010: e.T187623A8583489. doi:10.2305/IUCN.UK.2010-4.RLTS.T187623A8583489.en. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ Hoàng Đình Trung (2020). “Đa dạng thành phần loài cá ở vịnh Xuân Đài, tỉnh Phú Yên và định hướng sử dụng bền vững” (PDF). Báo cáo khoa học về nghiên cứu và giảng dạy sinh học ở Việt Nam: 153. doi:10.15625/vap.2020.00018.
  3. ^ Tống Xuân Tám (2002). “Thành phần loài cá biển thu ở cảng cá tại thành phố Phan Thiết - tỉnh Bình Thuận”. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh: 109. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  4. ^ C. Scharpf; K. J. Lazara (2020). “Order LABRIFORMES: Family LABRIDAE (i-x)”. The ETYFish Project Fish Name Etymology Database. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
  5. ^ a b Froese Rainer, và Daniel Pauly (chủ biên) (2019). Iniistius dea trong FishBase. Phiên bản tháng 2 2019.
  6. ^ a b D. J. Bray (2016). “Leaf Wrasse, Iniistius dea (Temminck & Schlegel 1846)”. Fishes of Australia. Truy cập ngày 23 tháng 2 năm 2021.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan