Cừu Đông Friesia là một giống cừu nhà thuộc nhóm cừu hướng sữa có nguồn gốc từ Đông Frisia ở miền bắc nước Đức. Nó có thể là giống tốt nhất hoặc một trong những giống cừu tốt nhất về sản lượng sữa trên mỗi đơn vị cá thể cừu. Đông Friesian sản xuất khoảng 300-600 lít sữa, qua một chu kỳ 200 đến 300 ngày. Có những báo cáo của các cá thể với sản lượng sữa đạt 900 lít. Đó là đếm sữa bú bởi những con chiên cũng như vắt sữa bằng máy Để cung cấp sữa có năng suất cao, cừu phải nhận được một chế độ ăn uống có chất lượng cao. Một điểm thu hút của giống cừu này là một con số trung bình tương đối cao của con cừu được sinh ra trên mỗi con cừu.
Cừu Đông Friesian được sử dụng như hoặc là một giống cừu thuần chủng hoặc cừu hướng sữa như một giống cừu để lai với các giống cừu hướng sữa khác. Chúng có thể làm tăng số lượng trung bình của cừu con sinh ra, cũng như sản xuất sữa một khi lai với giống sữa cừu khác. Chúng không phải là một giống cừu rất khỏe mạnh hoặc thích nghi tốt, nhưng con lai của chúng có thể cải thiện điều này. Lai chúng với giống cừu Awassi đã là một thành công đáng kể trong khu vực Địa Trung Hải hoặc các môi trường bán khô hạn. Cừu Đông Friesians lai với các giống cừu Lacaune đã là một thành công trong môi trường Wisconsin. Mãi cho đến những năm 1990, cừu Đông Friesian đã được du nhập vào Bắc Mỹ. Nhưng kể từ đó, với khả năng năng suất sữa cao của chúng, chúng đã nhanh chóng trở thành giống được sự lựa chọn trong số các nhà sản xuất sữa cừu thương mại, mặc dù chúng thường không ở dạng thuần chủng.
Những đặc tính vật lý của cừu Đông Friesian là chúng có cái mũi màu hồng và đầu và chân của chúng dày len. Đầu chúng khuyết sừng. Chúng thường có móng guốc xanh xao. Các tính năng đặc biệt nhất của con cừu Đông Friesian là cái đuôi của nó, được mô tả như là một "con chuột đuôi" bởi vì nó mỏng và trụi lông. Ở những nơi khác trên cơ thể của chúng có len màu trắng khoảng 35-37 micromet, với chiều dài staple là 120–160 mm và dải lông cừu của chúng từ 4–5 kg (8,8-11,0 lb). Hiện cũng tồn tại một biến thể màu nâu sẫm
Trán chúng phẳng, xương mũi lồi ra, chúng có hố nước mắt, mõm của chúng mỏng, môi hoạt động, răng cửa sắc, nhờ đó chúng có thể gặm được cỏ mọc thấp và bứt được những lá thân cây mềm mại, hợp khẩu vị trên cao để ăn. Chúng có thói quen đi kiếm ăn theo bầy đàn, tạo thành nhóm lớn trên đồng cỏ. Trong da chúng có nhiều tuyến mồ hôi và tuyến mỡ hơn dê. Bởi thế chúng bài tiết mồ hôi nhiều hơn và các cơ quan hô hấp tham gia tích cực hơn vào quá trình điều tiết nhiệt. Mô mỡ dưới da của chúng phát triển tốt hơn dê và ngược lại ở các cơ bên trong của chúng có ít tích lũy mỡ hơn dê.
Chúng có tính bầy đàn cao nên dễ quản lý, chúng thường đi kiếm ăn theo đàn nên việc chăm sóc và quản lý rất thuận lợi. Chúng cũng là loài dễ nuôi, mau lớn, ít tốn công chăm sóc. So với chăn nuôi bò thì chúng là vật nuôi dễ tính hơn, thức ăn của chúng rất đa dạng, thức ăn của chúng là những loại không cạnh tranh với lương thực của người. Chúng là động vật có vú ăn rất nhiều cỏ. Hầu hết chúng gặm cỏ và ăn các loại cỏ khô khác, tránh các phần thực vật có gỗ nhiều. Chúng có chế độ hoạt động ban ngày, ăn từ sáng đến tối, thỉnh thoảng dừng lại để nghỉ ngơi và nhai lại. Đồng cỏ lý tưởng cho chúng như cỏ và cây họ Đậu. Khác với thức ăn gia súc, thức ăn chính của chúng trong mùa đông là cỏ khô.
Chúng là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều loại thức ăn bao gồm thức ăn thô xanh các loại như: rơm cỏ tươi, khô, rau, củ quả bầu bí các loại, phế phụ phẩm công nông nghiệp và các loại thức ăn tinh bổ sung như cám gạo ngũ cốc. Mỗi ngày chúng có thể ăn được một lượng thức ăn 15-20% thể trọng. Chúng cần một lượng thức ăn tính theo vật chất khô bằng 3,5% thể trọng. Với nhu cầu 65% vật chất khô từ thức ăn thô xanh (0,91 kg) và 35% vật chất khô từ thức ăn tinh (0,49 kg). Khi cho chúng ăn loại thức ăn thô xanh chứa 20% vật chất khô và thức ăn tinh chứa 90% vật chất khô.
Nguồn nước uống là nhu cầu cơ bản của chúng. Lượng nước cần cho chúng biến động theo mùa và loại và chất lượng thực phẩm mà chúng tiêu thụ. Khi chúng ăn nhiều trong các tháng đầu tiên và có mưa (kể cả sương, khi chúng ăn vào sáng sớm), chúng cần ít nước hơn. Khi chúng ăn nhiều cỏ khô thì chúng cần nhiều nước. Chúng cũng cần uống nước sạch, và có thể không uống nếu nước có tảo hoặc chất cặn. Trong một số khẩu phần ăn của chúng cũng bao gồm các khoáng chất, hoặc trộn với lượng ít.
Sau khi cho phối giống 16-17 ngày mà không có biểu hiện động dục lại là có thể cừu đã có chửa, Căn cứ vào ngày phối giống để chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu (thời gian mang thai của cừu 146-150 ngày) nhằm hạn chế cừu sơ sinh bị chết; Có thể bồi dưỡng thêm thức ăn tinh và rau cỏ non cho cừu có chửa nhưng tuyệt đối tránh thức ăn hôi mốc; Khi có dấu hiệu sắp đẻ (bầu vú căng, xuống sữa, sụt mông, âm hộ sưng to, dịch nhờn chảy ra, cào bới sàn…) nên nhốt ở chuồng riêng có lót ổ rơm và chăn dắt gần, tránh đồi dốc.
Thông thường cừu mẹ nằm đẻ nhưng cũng có trường hợp đứng đẻ, tốt nhất nên chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu; Sau khi đẻ cừu mẹ tự liếm cho con. Tuy nhiên, vẫn phải lấy khăn sạch lau khô cho cừu con, nhất là ở miệng và mũi cho cừu con dễ thở. Lấy chỉ sạch buộc cuống rốn (cách rốn 4–5 cm), cắt cuống rốn cho cừu con và dùng cồn Iod để sát trùng; Giúp cừu con sơ sinh đứng dậy bú sữa đầu càng sớm càng tốt (vì trong sữa đầu có nhiều kháng thể tự nhiên); Đẻ xong cho cừu mẹ uống nước thoải mái (có pha đường 1% hoặc muối 0.5%).
Cừu con trong 10 ngày đầu sau khi đẻ cừu con bú sữa mẹ tự do; Từ 11-21 ngày tuổi cừu con bú mẹ 3 lần/ngày, nên tập cho cừu con ăn thêm thức ăn tinh và cỏ non, ngon; 80-90 ngày tuổi có thể cai sữa. Giai đoạn này phải có cỏ tươi non, ngon cho cừu con để kích thích bộ máy tiêu hóa phát triển (đặc biệt là dạ cỏ) và bù đắp lượng dinh dưỡng thiếu hụt do sữa mẹ cung cấp không đủ; Cừu sinh trưởng và phát triển nhanh, mạnh ở giai đoạn này.