Chiến dịch Tự do Bền vững

Chiến dịch Tự do Bền vững (Operation Enduring Freedom, OEF) là tên chính thức được chính phủ Hoa Kỳ sử dụng cho Cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu. Vào ngày 7 tháng 10 năm 2001, để đối phó với các cuộc tấn công ngày 11 tháng 9, Tổng thống George W. Bush tuyên bố rằng các cuộc không kích nhắm vào Al-QaedaTaliban đã bắt đầu ở Afghanistan.[1] Chiến dịch Tự do bền bỉ chủ yếu đề cập đến Chiến tranh ở Afghanistan,[2][3] nhưng nó cũng liên quan đến các hoạt động chống khủng bố ở các quốc gia khác, chẳng hạn như OEF-PhilippinesOEF-Trans Sahara.[4][5]

Sau 13 năm, vào ngày 28 tháng 12 năm 2014, Tổng thống Barack Obama tuyên bố kết thúc Chiến dịch Tự do Bền vững ở Afghanistan.[6] Các hoạt động tiếp theo tại Afghanistan của lực lượng quân đội Hoa Kỳ, cả không chiến và chiến đấu, diễn ra với tên gọi Chiến dịch Freedom's Sentinel.[7]

Hoạt động cấp dưới

[sửa | sửa mã nguồn]

Chiến dịch Tự do bền bỉ thường đề cập đến nhiệm vụ chiến đấu do Hoa Kỳ lãnh đạo ở Afghanistan.[2][3] OEF cũng liên kết với các hoạt động chống khủng bố ở các quốc gia khác nhằm vào Al Qaeda và tàn dư của Taliban, chẳng hạn như OEF-PhilippinesOEF-Trans Sahara, chủ yếu thông qua các phương tiện tài trợ của chính phủ.[4][5]

Từ nguyên

[sửa | sửa mã nguồn]

Chính phủ Hoa Kỳ đã sử dụng thuật ngữ "Chiến dịch Tự do Bền vững" để chính thức mô tả Chiến tranh ở Afghanistan, trong khoảng thời gian từ ngày 7 tháng 10 năm 2001 đến ngày 31 tháng 12 năm 2014.[8][14] Các hoạt động tiếp tục tại Afghanistan của lực lượng quân đội Hoa Kỳ, cả không chiến và chiến đấu, giờ đây diễn ra với tên gọi Chiến dịch Freedom's Sentinel.[7]

Chiến dịch này ban đầu được gọi là "Chiến dịch Công lý vô hạn", nhưng vì những cụm từ tương tự đã được các tín đồ của một số tôn giáo sử dụng như một mô tả độc quyền về Chúa, nên nó được cho là đã được thay đổi để tránh xúc phạm đến những người Hồi giáo chiếm đa số ở Afghanistan.[15] Vào tháng 9 năm 2001, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush nhận xét rằng " cuộc thập tự chinh này, cuộc chiến chống khủng bố này, sẽ mất thời gian", dẫn đến sự chỉ trích rộng rãi từ thế giới Hồi giáo, cũng có thể đã góp phần vào việc đổi tên chiến dịch này.[15]

Thuật ngữ "OEF" thường dùng để chỉ giai đoạn của Chiến tranh ở Afghanistan từ năm 2001 đến năm 2014. Các hoạt động khác, chẳng hạn như Chương trình Tàu hỏa và Trang bị, chỉ được kết nối lỏng lẻo hoặc trên danh nghĩa, chẳng hạn như thông qua các phương tiện tài trợ của chính phủ.[4] Tuy nhiên, tất cả các hoạt động đều tập trung vào các hoạt động chống khủng bố.

Chiến dịch Tự do bền vững, là một hoạt động chung của Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Afghanistan, tách biệt với Lực lượng Hỗ trợ An ninh Quốc tế (ISAF), một hoạt động của các quốc gia thuộc Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương bao gồm Hoa Kỳ và Vương quốc Anh[16]. chạy song song, mặc dù người ta đã gợi ý rằng chúng nên hợp nhất.[17]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “Operation Enduring Freedom Fast Facts”. CNN. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2017.
  2. ^ a b Philipps, Dave (ngày 31 tháng 12 năm 2014). “Mission Ends in Afghanistan, but Sacrifices Are Not Over for U.S. Soldiers”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2017.
  3. ^ a b Dempsey, Judy (ngày 20 tháng 7 năm 2005). “NATO to add to Afghanistan troops”. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2017.
  4. ^ a b c “Helping Georgia?”. Boston University Institute for the Study of Conflict, Ideology and Policy. March–April 2002. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 9 năm 2006. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2007.
  5. ^ a b Lamothe, Dan (ngày 29 tháng 12 năm 2014). “Meet Operation Freedom's Sentinel, the Pentagon's new mission in Afghanistan”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2017.
  6. ^ DOD News, Defense Media Activity (ngày 29 tháng 12 năm 2014). “Operation Enduring Freedom comes to an end”. U.S. Army (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2017.
  7. ^ a b Tilghman, Andrew (ngày 19 tháng 2 năm 2015). “Despite war's end, Pentagon extends Afghanistan campaign medal”. MilitaryTimes. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
  8. ^ a b United States Department of Defense (tháng 12 năm 2014). “Obama, Hagel Mark End of Operation Enduring Freedom”. Defense. United States of America: United States Department of Defense. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2015.
  9. ^ , ISBN 978-0-8330-9210-6 |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)
  10. ^ Turse, Nick (ngày 20 tháng 1 năm 2015). “US Special Operations Forces Are in More Countries Than You Can Imagine”. The Nation. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2017.
  11. ^ Spencer C. Tucker (ngày 8 tháng 10 năm 2010). The Encyclopedia of Middle East Wars: The United States in the Persian Gulf, Afghanistan, and Iraq Conflicts [5 volumes]: The United States in the Persian Gulf, Afghanistan, and Iraq Conflicts. ABC-CLIO. tr. 415. ISBN 978-1-85109-948-1. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2015.
  12. ^ Daniel P. Bolger, Why we lost: A general's inside account of the Iraq and Afghanistan wars, 2014, xiii
  13. ^ Bolger, Daniel P. (2014). Why We Lost: A General's Inside Account of the Iraq and Afghanistan Wars. Houghton Mifflin Harcourt. tr. xiii, 415. ISBN 9780544370487.
  14. ^ “Operation Enduring Freedom comes to an end”. United States Army. ngày 29 tháng 12 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 2 năm 2015.
  15. ^ a b “Infinite Justice, out – Enduring Freedom”. BBC News. ngày 25 tháng 9 năm 2001. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 10 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2006.
  16. ^ Great Britain: Parliament: House of Commons: Defence Committee (2006). The UK Deployment to Afghanistan: Fifth Report of Session 2005–06; Report, Together with Formal Minutes, Oral and Written Evidence. The Stationery Office. tr. 39. ISBN 978-0-215-02828-0. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2015.
  17. ^ David T. Zabecki PhD (ngày 28 tháng 10 năm 2014). Germany at War: 400 Years of Military History [4 volumes]. ABC-CLIO. tr. 6. ISBN 978-1-59884-981-3. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2015.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nên tìm hiểu những khía cạnh nào của người ấy trước khi tiến tới hôn nhân?
Nên tìm hiểu những khía cạnh nào của người ấy trước khi tiến tới hôn nhân?
Sự hiểu biết của mỗi người là khác nhau, theo như góc nhìn của tôi, hôn nhân có rất nhiều kiểu, thế nhưng một cuộc hôn nhân làm cho người trong cuộc cảm thấy thoải mái, nhất định cần phải có tình yêu.
Nhân vật Epsilon: the Precision - The Eminence In Shadow
Nhân vật Epsilon: the Precision - The Eminence In Shadow
Epsilon (イプシロン, Ipushiron?) (Έψιλον) là thành viên thứ năm của Shadow Garden, là một trong "Seven Shadows" ban đầu.
Tổng hợp các loại Kagune trong Tokyo Ghoul
Tổng hợp các loại Kagune trong Tokyo Ghoul
Một trong những điều mà chúng ta không thể nhắc đến khi nói về Tokyo Ghoul, đó chính là Kagune
Jinx: the Loose Cannon - Liên Minh Huyền Thoại
Jinx: the Loose Cannon - Liên Minh Huyền Thoại
Jinx, cô nàng tội phạm tính khí thất thường đến từ Zaun, sống để tàn phá mà chẳng bận tâm đến hậu quả.