Lá có cuống, lá nguyên hoặc khía răng cưa ở mép. Cụm hoa là ngù hoa hay xim hoa dạng chùy, thường rất thơm. Đài hoa gồm 5 thùy (lá đài) tách biệt hoàn toàn. Tràng hoa trắng hay vàng nhạt, hình ống hay hình ống-chuông, hiếm khi hình phễu, chia 5 thùy.[1] Điều này là khác biệt với Hilsenbergia và không phải là đặc điểm chung cho toàn bộ chi Bourreria.
Quả hạch màu vàng, cam hay đỏ nhạt. Chúng chứa 4 hạt và vỏ quả trong hoặc là chia 4 (mỗi vỏ quả trong chứa 1 hạt), hay chia 2 (mỗi vỏ quả trong chứa 2 hạt) hoặc không phân chia.[1] Sự chia tách vỏ quả trong cho phép phân loại các loài trong chi này.
Chi này có mặt trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới.[4] Phần lớn các loài còn sinh tồn được tìm thấy ở châu Á. Một lượng loài đáng kể có ở châu Phi (gồm cả Madagascar) và các đảo trên Ấn Độ Dương. Một vài loài có ở Trung Mỹ và Australia.
“Index Nominum Genericorum – Ehretia”. International Code of Botanical Nomenclature. Washington D.C.: Smithsonian Museum of Natural History. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2009.
UniProt. “Ehretia”(HTML). Truy cập {{{accessdate}}}. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |accessdate= (trợ giúp)
“Ehretia”. Australian Plant Name Index (APNI), cơ sở dữ liệu IBIS. Trung tâm Nghiên cứu Đa dạng sinh học Thực vật (Centre for Plant Biodiversity Research), Chính phủ Úc.
“Ehretia P.Browne”. African flowering plants database. Pretoria: South African National Biodiversity Institute, Conservatoire et Jardin botaniques de la Ville de Genève & Tela Botanica. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2009.
Luật Căn cước sẽ có hiệu lực thi hành từ 1.7, thay thế luật Căn cước công dân. Từ thời điểm này, thẻ căn cước công dân (CCCD) cũng chính thức có tên gọi mới là thẻ căn cước (CC)