Cidofovir (tên thương hiệu Vistide) là thuốc kháng vi-rút tiêm chủ yếu được sử dụng để điều trị viêm võng mạc do cytomegalovirus (CMV) (nhiễm trùng võng mạc mắt) ở người bị AIDS.[2][3]
Cidofovir đã được phê duyệt cho sử dụng y tế vào năm 1996.[4]
Dấu hiệu duy nhất của nó đã nhận được sự chấp thuận theo quy định trên toàn thế giới là viêm võng mạc do cytomegalovirus.[2][3] Cidofovir cũng đã cho thấy hiệu quả trong điều trị nhiễm HSV kháng aciclovir.[5] Cidofovir cũng đã được nghiên cứu như là một phương pháp điều trị bệnh não chất trắng đa ổ tiến triển với các báo cáo trường hợp thành công về việc sử dụng nó.[6] Mặc dù vậy, loại thuốc này không chứng minh được hiệu quả trong các nghiên cứu có kiểm soát.[7] Cidofovir có thể có hiệu quả chống bệnh đậu mùa và có thể được sử dụng trên cơ sở hạn chế trong trường hợp xảy ra sự cố sinh học liên quan đến các trường hợp bệnh đậu mùa.[8] Brincidofovir, một dẫn xuất cidofovir với hoạt tính cao hơn nhiều so với bệnh đậu mùa có thể dùng đường uống đã được phát triển.[9] Nó có tác dụng ức chế sự nhân lên của virus varicella-zoster trong ống nghiệm mặc dù cho đến nay chưa có thử nghiệm lâm sàng nào được thực hiện, có thể là do sự phong phú của các lựa chọn thay thế an toàn hơn như aciclovir.[10] Cidofovir cho thấy hoạt động chống vi rút BK trong một nhóm người nhận ghép.[11] Cidofovir đang bị điều tra như một liệu pháp bổ sung intralesional chống papillomatosis do HPV.[12][13]
Nó lần đầu tiên nhận được sự chấp thuận của FDA vào ngày 26 tháng 6 năm 1996,[14] phê duyệt TGA vào ngày 30 tháng 4 năm 1998 [3] và phê duyệt EMA vào ngày 23 tháng 4 năm 1997.[15]
Nó đã được sử dụng tại chỗ để điều trị mụn cóc.[16]
Cidofovir chỉ có sẵn dưới dạng thuốc tiêm tĩnh mạch. Cidofovir sẽ được dùng cùng với probenecid làm giảm tác dụng phụ cho thận.[19] Probenecid làm giảm độc tính trên thận bằng cách ức chế vận chuyển anion hữu cơ của các tế bào biểu mô ống gần của thận.[20] Ngoài ra, hydrat hóa phải được dùng cho bệnh nhân dùng cidofovir. Nên dùng 1 lít nước muối bình thường kết hợp với mỗi liều cidofovir.[19]
Chất chuyển hóa hoạt động của nó, cidofovir diphosphate, ức chế sự nhân lên của virus bằng cách ức chế chọn lọc DNA polymerase của virus.[3] Nó cũng ức chế polymerase của người nhưng hành động này yếu hơn 8-600 lần so với hành động của nó đối với polymerase DNA của virus.[3] Nó cũng kết hợp chính nó vào DNA virus do đó ức chế tổng hợp DNA của virus trong quá trình sinh sản.[3]
Nó có hoạt động in vitro chống lại các virus sau:[21]
Cidofovir được phát hiện tại Viện Hóa học hữu cơ và hóa sinh, Prague, bởi Antonín Holý, và được phát triển bởi Gilead Science [22] và được bán với tên thương hiệu Vistide bởi Gilead ở Hoa Kỳ và bởi Pfizer ở nơi khác.
^Cundy, Kenneth C. "Clinical Pharmacokinetics of the Antiviral Nucleotide Analogues Cidofovir and Adefovir." Clinical Pharmacokinetics 36.2 (1999): 127-43.
^“Vistide: EPAR -Product Information”(PDF). European Medicines Agency. Gilead Sciences International Ltd. ngày 7 tháng 11 năm 2013. Bản gốc(PDF) lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2014.
^Fernández-Morano, T; del Boz J; González-Carrascosa M (2011). “Topical cidofovir for viral warts in children”. J Eur Acad Dermatol Venereol. 25 (12): 1487–9. doi:10.1111/j.1468-3083.2010.03961.x. PMID21261749.
^Liekens S (2008). “Regulation of cancer progression by inhibition of angiogenesis and induction of apoptosis”. Verh. K. Acad. Geneeskd. Belg. 70 (3): 175–91. PMID18669159.
^ ab“Details”(PDF). www.gilead.com. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2019.
^Lacy, S. "Effect of Oral Probenecid Coadministration on the Chronic Toxicity and Pharmacokinetics of Intravenous Cidofovir in Cynomolgus Monkeys.
Trinity in Tempest mang đến cho độc giả những pha hành động đầy kịch tính, những môi trường phong phú và đa dạng, cùng với những tình huống hài hước và lôi cuốn