Dãy núi Pamir

Dãy núi Pamir
Dãy núi
Dãy núi Pamir nhìn từ trên máy bay, tháng 6 năm 2008
Các quốc gia Tajikistan, Kyrgyzstan, Afghanistan, Pakistan
Các vùng Gorno-Badakhshan, Tỉnh Biên giới Tây-Bắc, Bắc Bộ Pakistan
Điểm cao nhất Ismoil Somoni
 - cao độ 7.495 m (24.590 ft)
 - tọa độ 38°55′B 72°01′Đ / 38,917°B 72,017°Đ / 38.917; 72.017
Dãy núi Pamir chủ yếu nằm trong tỉnh Gorno-Badakhshan, Tajikistan

Dãy núi Pamir là một dãy núi nằm tại Trung Á, được tạo thành từ sự nối liền hay điểm nút của các dãy núi Thiên Sơn, Khách Lạt Côn Lôn, Côn LônHưng Đô Khố Thập. Dãy núi này là một trong các dãy núi cao nhất thế giới. Dãy núi này được biết đến trong tiếng Trung như là Thông Lĩnh (葱嶺) tức 'núi củ hành'.

Khu vực Pamir có trung tâm nằm trong tỉnh Gorno-Badakhshan của Tajikistan. Các phần của dãy núi Pamir cũng nằm trong các quốc gia khác như Kyrgyzstan, Afghanistan, Pakistan. Phía nam của Gorno-Badakhshan, hành lang Wakhan chạy dọc theo khu vực Pamir, cũng bao gồm các phần xa nhất về phía bắc của tỉnh Biên giới Tây-Bắc và của Địa khu Bắc Bộ đều thuộc Pakistan.

Địa lý

[sửa | sửa mã nguồn]

Ba đỉnh núi cao nhất của dãy núi Pamir là Ismoil Somoni (từ 1932 tới 1962 gọi là đỉnh Stalin, từ 1962 tới 1998 là đỉnh Cộng sản) với độ cao 7.495 m (24.590 ft); đỉnh Ibn Sina (tên gọi không chính thức là đỉnh Lenin) với độ cao 7.134 m (23.406 ft); và đỉnh Korzhenevskaya với độ cao 7.105 m (23.310 ft)[1]

Có nhiều sông băng trong khu vực dãy núi Pamir, bao gồm sông băng Fedchenko dài 77 km (48 dặm Anh), con sông băng dài nhất tại Liên Xô cũ và là sông băng dài nhất ngoài phạm vi hai vùng địa cực[2].

Khí hậu

[sửa | sửa mã nguồn]

Bị tuyết che phủ trong suốt cả năm, khu vực dãy núi Pamir có mùa đông kéo dài và lạnh lẽo và mùa hè ngắn nhưng mát mẻ. Lượng giáng thủy hàng năm đạt khoảng 130 mm (5 inch), đủ hỗ trợ cho sự phát triển của các đồng cỏ nhưng có rất ít cây thân gỗ.

Than đá được khai thác ở miền tây, nhưng ngành mục súc chăn nuôi cừu tại các bãi cỏ miền núi vẫn là nguồn thu nhập chính của khu vực này.

Phát hiện

[sửa | sửa mã nguồn]
Bản đồ chỉ ra vị trí của dãy núi Pamir

Trong đầu thập niên 1980, một mỏ clinohumit chất lượng đá quý đã được phát hiện trong khu vực dãy núi Pamir. Nó là loại trầm tích duy nhất đã biết cho tới khi phát hiện ra mỏ khoáng vật chất lượng đá quý tại Taymyr của Siberi vào năm 2000.

Vận tải

[sửa | sửa mã nguồn]

Ở rìa đông nam của khu vực Pamir tại Trung Quốc, đường cao tốc Karakoram, đường cao tốc quốc tế cao nhất trên thế giới, nối liền Pakistan với Trung Quốc. Đường cao tốc Pamir, đường cao tốc cao thứ hai thế giới, chạy từ DushanbeTajikistan tới OshKyrgyzstan ngang qua tỉnh tự trị Gorno-Badakhshan và nó là hành trình cung cấp chính của khu vực cô lập này. Con đường tơ lụa thời cổ đại đi qua một loạt các núi của dãy núi Pamir[3]

Vị trí chiến lược

[sửa | sửa mã nguồn]
Đỉnh Ismoil Somoni chụp năm 1989 (khi đó có tên là đỉnh Cộng sản).

Về mặt lịch sử, dãy núi Pamir từng được coi là hành trình thương mại chiến lược giữa KashgarKokand trên Con đường tơ lụa phía bắc và đã từng là mục tiêu của nhiều vụ tranh giành lãnh thổ. Con đường tơ lụa phía bắc (dài khoảng 2.600 km) nối liền kinh đô cổ đại của Trung Quốc là Tây An với phía tây, vượt qua dãy núi Pamir tới Khách Thập trước khi nối với Parthia cổ đại[4]. Trong thế kỷ 20, dãy núi này là nơi diễn ra cuộc nội chiến Tajikistan, biên giới tranh chấp giữa Trung Quốc và Liên Xô, nơi thiết lập các căn cứ quân sự của Liên Xô cũ, Nga, Ấn Độ[5], và sự tái quan tâm tới phát triển thương mại và khai thác tài nguyên[6][7].

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Tajikistan: 15 năm độc lập, niên giám thống kê, Dushanbe, 2006, trang 8, bằng tiếng Nga.
  2. ^ Trong khu vực dãy núi Karakoram, sông băng Siachen dài 70 km, sông băng Biafo dài 63 km, sông băng Baturasông băng Baltoro dài 57 km. Sông băng Bruggen/Pio XI ở miền nam Chile dài 64 km. Sông băng Nam Inylchek/Enylchek ở Kyrgyzstan dài 62 km. Các phép đo thực hiện trên bản đồ gần đây, nói chung là bản đồ địa hình của Nga với tỷ lệ xích 1:200.000 cũng như từ Orographic Sketch Map: Karakoram: Sheets 1 and 2 năm 1990 của Swiss Foundation for Alpine Research, Zurich.
  3. ^ “Official Website of Pamir Travel”. Pamir Travel. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2007.
  4. ^ Silk Road, North China, C.Michael Hogan, the Megalithic Portal, chủ biên A. Burnham
  5. ^ “India's `Pamir Knot'. The Hindu. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2007.
  6. ^ “The West Is Red”. Time. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2007.
  7. ^ “Huge Market Potential at China-Pakistan Border”. China Daily. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2007.[liên kết hỏng]

Đọc thêm

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Curzon George Nathaniel. 1896. The Pamirs and the Source of the Oxus. Hiệp hội Địa lý Hoàng gia Anh, London. Tái bản: Elibron Classics Series, Adamant Media Corporation. 2005. ISBN 1-4021-5983-8 (pbk; ISBN 1-4021-3090-2 (hbk).
  • Gordon T. E. 1876. The Roof of the World: Being the Narrative of a Journey over the high plateau of Tibet to the Russian Frontier and the Oxus sources on Pamir. Edinburgh. Edmonston và Douglas. Ch’eng Wen Publishing Company tái bản, Đài Bắc, 1971.
  • Toynbee Arnold J. 1961. Between Oxus and Jumna. London. Nhà in Đại học Oxford.
  • Wood John, 1872. A Journey to the Source of the River Oxus. With an essay on the Geography of the Valley of the Oxus by Colonel Henry Yule. London: John Murray.
  • Horsman S. 2002. Peaks, Politics and Purges: the First Ascent of Pik Stalin trong Douglas E. (chủ biên) Alpine Journal 2002 (Quyển 107), The Alpine Club & Ernest Press, London, trang 199-206.
  • Leitner G. W. 1890. Dardistan in 1866, 1886 and 1893: Being an Account of the History, Religions, Customs, Legends, Fables and Songs of Gilgit, Chilas, Kandia (Gabrial) Yasin, Chitral, Hunza, Nagyr and other parts of the Hindukush. With a supplement to the second edition of The Hunza and Nagyr Handbook. And an Epitome of Part III of the author’s "The Languages and Races of Dardistan". First Reprint 1978. Manjusri Publishing House, New Delhi.
  • Strong Anna Louise. 1930. The Road to the Grey Pamir. Robert M. McBride & Co., New York.
  • Slesser Malcolm "Red Peak: A Personal Account of the British-Soviet Expedition", Coward McCann, 1964
  • Tilman H. W. Phần "Two Mountains and a River" trong "The Severn Mountain Travel Books". Diadem, London. 1983
  • Waugh Daniel C. 1999. "The ‘Mysterious and Terrible Karatash Gorges’: Notes and Documents on the Explorations by Stein and Skrine." The Geographical Journal, Quyển 165, số 3. (11/1999), trang 306-320.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nên tìm hiểu những khía cạnh nào của người ấy trước khi tiến tới hôn nhân?
Nên tìm hiểu những khía cạnh nào của người ấy trước khi tiến tới hôn nhân?
Sự hiểu biết của mỗi người là khác nhau, theo như góc nhìn của tôi, hôn nhân có rất nhiều kiểu, thế nhưng một cuộc hôn nhân làm cho người trong cuộc cảm thấy thoải mái, nhất định cần phải có tình yêu.
Đại hiền triết Ratna Taisei: Tao Fa - Jigokuraku
Đại hiền triết Ratna Taisei: Tao Fa - Jigokuraku
Tao Fa (Đào Hoa Pháp, bính âm: Táo Huā) là một nhân vật phản diện chính của Thiên đường địa ngục: Jigokuraku. Cô ấy là thành viên của Lord Tensen và là người cai trị một phần của Kotaku, người có biệt danh là Đại hiền triết Ratna Ratna Taisei).
Fury (2019): Chiến tranh và người lính thủy đánh bộ qua lăng kính điện ảnh
Fury (2019): Chiến tranh và người lính thủy đánh bộ qua lăng kính điện ảnh
Fury (2014) sẽ đem lại cho bạn cái nhìn chân thực, những mặt tối và hậu quả nặng nề đằng sau các cuộc chiến tranh mà nhân loại phải hứng chịu.
Ý nghĩa hoa văn của các khu vực Genshin Impact
Ý nghĩa hoa văn của các khu vực Genshin Impact
Thường phía sau lưng của những nhân vật sẽ có hoa văn tượng trưng cho vùng đất đó.