Bài viết hoặc đoạn này cần được wiki hóa để đáp ứng tiêu chuẩn quy cách định dạng và văn phong của Wikipedia. |
Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. |
Dịch lý là một bộ môn mô tả, diễn nghĩa một lý lẽ, một lý thuyết hay một Nguyên lý, là lý lẽ về sự Biến đổi, Biến hóa, Biến động của Vũ Trụ Vạn Vật và cũng là Lý Lẽ của sự Cấu Tạo Hóa Thành Vũ Trụ.
Dịch lý là khái niệm mô tả sự biến đổi rộng lớn với hàm ý hiểu thông suốt và xuyên suốt như 1 Đại sự hiển nhiên sẽ xảy ra ở khoảng không địa lý tại thời điểm nhất định nào đó đến sự nhất định xảy ra tại tương lai gần hay xa
Lý Dịch Nguyên Thủy Là những Ý Lý ẩn tàng khi chiêm ngắm các Đồ hình vô tự (không có chữ, ví dụ Thái cực đồ) [cần dẫn nguồn] được cổ nhân lưu truyền lại mà có được hiểu được Chính Lý của Tiền nhân, tất cả các Đồ hình đều chỉ là những hình vẽ, những ký hiệu, chúng không hề có những chú thích bằng ký tự của một loại văn tự nào, vì thế người ta nói đó là những Đồ hình hài thanh tượng ý để suy Lý. Những Hình Đồ này không biết đã có tự bao giờ và để giải thích nguồn gốc người ta đã huyền thoại hóa hay thần thánh hóa. Hy vọng với Khoa khảo cổ con người sẽ tìm được thời điểm xuất hiện và một cổ tự đầu tiên diễn tả Lý dịch nguyên thủy này.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng Kinh dịch không thực sự là của Trung quốc. Theo Ông Hondanariyouki, một nhà nghiên cứu người Nhật nhận xét: " Ở Chu dịch, các từ thoán tượng đều lấy tên từ các loại muông thú phương nam (chim hồng). Thêm vào đó, ở Chu dịch có "phi long"; "tiềm long" càng khiến cho người ta cảm thấy Chu dịch là trước tác của người nước Sở viết ra, và ra đời sau khi Trung quốc đã mở đường giao thông về phía nam Kinh Sở".
Nói về các tộc người đã từng sinh sống trên đất Trung Hoa, Theo trang WEB republicachina[1] thì trên đất Trung Hoa thời xa xưa đã có họ Suiren (Toại Nhân), sau đó họ You Chao (Hữu sào) đã thay thế họ Toại nhân, tiếp nữa là họ Fuxi (Phục Hy) và đến Nuwa (Nữ oa) đã thay thế họ Hữu sào, sau cùng là họ Shennong (Thần nông) đã thay thế họ Phục Hy. Theo truyền thuyết cũng như thuyết quái truyện của Kinh Dịch thì họ Toại nhân đã phát minh ra "lửa"; họ Phục Hy đã phát minh ra "cái lưới" và chữ viết dưới dạng "thắt nút kết thằng" (chữ khoa đẩu ?) để ghi việc, đã biết trồng trọt chăn nuôi; họ Thần Nông phát minh ra "cái cày", mở chợ lập làng, tìm ra cây thuốc. Đó chính là Tam Hoàng. Ngoài ra không thấy đề cập đến Hữu Sào đã phát minh ra những gì.
Gần đây khảo cổ học đã khai quật được một dụng cụ làm ra lửa ở Chiết Giang có niên đại cách đây hơn 8000 năm, cho thấy rằng họ Toại Nhân là người Hòa Bình ở di chỉ Hemudu ở bờ nam sông Trường Giang có lẽ đã di cư lên phía Bắc đến di chỉ Dawenkou ở Sơn Đông khoảng 4300 TCN khi vùng này bị ngập mặn do nước biển dâng. Họ Toại Nhân đã bị họ Hữu Sào, tổ tiên của người Hàn Quốc đến thay thế vào khoảng 3898 TCN. Họ Hữu sào lại bị họ Fuxi, có lẽ là tổ tiên của tộc Khương cũng được gọi là Viêm Đế từ phía Tây đến thay thế. Khảo sát kỹ có thể thấy được ngoài họ Khương ra Tộc Khương còn có họ Phù, những cái tên có liên quan như Phù sai (Fu chai), Phù Nam, v.v. Phục Hy và Nữ Oa được cho là hai anh em do đó có thể Tộc Khương sau khi đến Trung Hoa đã kết lại với nhóm tiền Đông Nam Á để phát triển nông nghiệp. Ở Việt Nam có câu ví: bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng. Như vậy cũng không tìm thấy hay chứng minh được ai là người đã vẽ ra các Đồ Hình Dịch Lý Vô Tự.
Người Trung Hoa gán nguồn gốc của thuyết Âm Dương Bát quái cho Phục Hi, Phục Hi thấy long mã hiện lên ở sông Hoàng Hà, trên lưng có bức đồ hình, rồi thấy rùa thần hiện ở sông Lạc, trên lưng cũng có trang chữ. Phục Hi dựa vào đó vẽ lại thành Hà đồ Lạc thư, rồi ngửa đầu xem tượng trời, cúi xuống xem thế đất, mà vẽ nên Bát quái. Hơn 1 nghìn năm sau, Văn vương nhà Chu chồng quẻ và viết lời giải thích cho từng quẻ, tổng cộng 64 câu, gọi là Thoán Từ, nhưng ý nghĩa quá thâm sâu. Em của Văn vương là Chu Công giải thích 384 hào, gọi là Hào từ. Thoán từ và Hào từ là kinh điển, về sau còn có Thập dực và Thoán truyện nói rõ hơn nữa ý nghĩa. Thập dực có thuyết nói là của Khổng tử, nhưng có lẽ Khổng tử chỉ nghiên cứu san định chứ không viết gì thêm, Thập dực do đời sau viết ra.
Hà đồ Lạc thư cũng không ai biết, các thuyết cũng khác nhau, chẳng hạn cho Lạc thư là do vua Vũ trị thủy mới thấy. Hình vẽ các chấm đen trắng như ngày nay vẫn thường thấy là do Khổng An Quốc (cháu 12 đời của Khổng Tử) đưa ra vào khoảng năm 140-186. Từ đó mà hình thành lên thuyết Âm Dương bát quái là điều không hợp lý mà là sự ngược lại: từ thuyết Âm Dương, kết hợp với tư duy số học để vẽ nên hai bức của Khổng An Quốc thì hữu lý hơn.
Tóm lại dựa vào các truyền thuyết trên làm cơ sở cho Lý lẽ của Dịch học mà Chu Công, Chu Văn Vương đã viết lời cho các Đồ hình vô tự và kế đến Khổng Tử san định sắp xếp lại mà thành Bộ Kinh Dịch Trung Hoa ngày nay.
Từ thập niên 60, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam như GS Lương Kim Định, GS Hà Văn Tấn,... đã phát triển Dịch lý Việt Nam và coi đó như "sản phẩm sáng tạo của nền văn hiến Âu Lạc".
Nói chung đa số các nhà nghiên cứu phương Tây sử dụng Kinh dịch của Trung Quốc; chấp nhận Huyền thoại Long Mã, Truyền thuyết Mu Rùa, chấp nhận Lý Dịch ngắn gọn "Vũ trụ khởi từ Thái cực Thái cực sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh tứ tượng Bát quái, Bát quái sinh 64 Tượng" không thắc mắc tại sao có Thái cực, có Lưỡng Nghi v.v. Để Bói toán, [1] Lưu trữ 2008-12-18 tại Wayback Machine, để Lý giải Phong thủy; để thực nghiệm Châm cứu; áp dụng vào Toán học, Điện tử v.v. Ngoài ra còn phát triển Kinh dịch thêm bằng nhiều cách nhìn của Tây Phương [2] Lưu trữ 2009-09-20 tại Wayback Machine như Kinh Dịch với Hệ Binary [3], Kinh Dịch với DNA [4] Lưu trữ 2008-12-30 tại Wayback Machine, Kinh Dịch với Kabbalah một Triết học cổ thời Đế quốc Babylon [5] Lưu trữ 2008-06-10 tại Wayback Machine, v.v.