Danh sách đĩa nhạc của Lorde, một nữ ca sĩ và nhạc sĩ người New Zealand, bao gồm 3 album phòng thu, 1 album nhạc phim, 3 đĩa mở rộng, 6 đĩa đơn và 6 video âm nhạc. Năm 13 tuổi, Lorde ký hợp đồng với hãng thu âm Universal Music Group (UMG) và bắt đầu sáng tác âm nhạc.[1] Tháng 11 năm 2012, khi cô 16 tuổi,[2] cô tự phát hành đĩa đơn mở rộng The Love Club EP.[3] EP này được phát hành thương mại bởi UMG vào tháng 3 năm 2013;[4] "Royals", một bài hát được trích ra từ EP, đã trở thành một bài hát nổi tiếng ở New Zealand vào đầu năm 2013. Cuối năm đó, "Royals" đã đứng đầu nhiều bảng xếp hạng quốc tế, trong đó có bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ. Với "Royals", Lorde trở thành nghệ sĩ đơn ca đầu tiên của New Zealand giành được vị trí quán quân trên Hot 100.[5]
Vào tháng 9 năm 2013, Lorde phát hành album phòng thu đầu tay Pure Heroine, trong đó bao gồm "Royals". Bài hát xếp vị trí thứ nhất tại New Zealand và Úc và được nhiều quốc gia chứng nhận doanh số. "Tennis Court" được phát hành làm đĩa đơn thứ hai từ album và đứng đầu các bảng xếp hạng đĩa đơn tại New Zealand. Đĩa đơn thứ ba từ album Pure Heroine, "Team", là một bài hát nằm trong top 10 tại New Zealand, Canada và Mỹ. "No Better" và "Glory and Gore" lần lượt là đĩa đơn thứ tư và thứ năm được phát hành từ album. Tháng 9 năm 2014, Lorde phát hành đĩa đơn "Yellow Flicker Beat", được thu âm cho album nhạc phim Trò chơi sinh tử: Húng nhại – Phần 1. Lorde đã bán được tổng cộng 6,8 triệu bản ở Mỹ (tính đến tháng 1 năm 2014)[6] và 17 triệu bản trên toàn thế giới (tính đến tháng 11 năm 2014).[7]
^United States sales figures for Melodrama as of June 2017.[29]
^Đĩa mở rộng The Love Club đã được xếp hạng trên Australian Singles Chart nên các bài hát từ The Love Club EP không được xếp hạng riêng. Tuy nhiên, "Royals" đã đạt đến hạng 2 trên ARIA Digital Track Chart.
^ ab“Discografie Lorde”. danishcharts.com. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2014. templatestyles stripmarker trong |work= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
^ abcdVị trí cao trên bảng xếp hạng taị Liên hiệp Anh:
Vị trí của "Tennis Court": “Official Singles Chart UK Top 100”. Official Charts Company. ngày 2 tháng 11 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2015.
Vị trí của "Yellow Flicker Beat": “Official Singles Chart UK Top 100”. Official Charts Company. ngày 11 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2015.
Xem vị trí trên BXH những bài hát khác: “Lorde”. Official Charts Company. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2014.
Đối với tất cả đĩa đơn ngoại trừ "Glory and Gore" và "Everybody Wants to Rule the World": “Discography Lorde”. Australian-charts.com (Hung Medien). Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2014.
Đối với "Everybody Wants to Rule the World": “The ARIA Report”(PDF). Australian Recording Industry Association. ngày 29 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2014.
^“LORDE ROYALS” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. ngày 4 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2014.
^ abc“FIMI: Certificazioni Archivio”. FIMI. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2014. Note: Để xem các chứng nhận, 1) gõ:"Lorde" trong hộp "Artista", 2) chọn "--" trong hộp "Seleziona settimana e anno", 3) chọn "Album e Compilation" trong hộp "Scegli la sezione" cho album hoặc chọn "Online" cho đĩa đơn, 4) nhấn vào "Avvia la Ricerca"
^“Discografie Lorde”. ultratop.be (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2014. templatestyles stripmarker trong |work= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
^“Discografie Lorde”. ultratop.be (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2014. templatestyles stripmarker trong |work= tại ký tự số 1 (trợ giúp)