XXXTentacion phát hành bài hát đầu tiên "News/Flock" vào tháng 6 năm 2013 trên SoundCloud.[3] EP đầu tiên của anh Ice Hotel được phát hành vào tháng 4 năm 2014. Anh đã phát hành nhiều mixtape và EP trong suốt các năm 2015 và 2016. Vào tháng 12 năm 2015, XXXTentacion phát hành đĩa đơn đột phá của anh "Look at Me!", thu hút được hàng triệu lượt phát trên SoundCloud trước khi được phát hành lại thông qua Empire Distribution vào tháng 2 năm 2017.[4] Đĩa đơn đạt cao nhất tại vị trí thứ 34 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. Sau đó bài hát đã được RIAA chứng nhận Bạch kim. Vào tháng 5 cùng năm đó, anh phát hành mixtape thứ tư của mình Revenge, với vị trí cao nhất thứ 30 trên bảng xếp hạng Billboard 200.
Album phòng thu đầu tiên của anh, 17, được phát hành vào tháng 8 năm 2017 và khởi đầu tại vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Billboard 200. Album đã cho ra ba đĩa đơn: "Revenge" cùng với hai đĩa đơn được chứng nhận Bạch kim là "Jocelyn Flores" và "Fuck Love". Vào tháng 12 năm 2017, anh phát hành EP thứ năm A Ghetto Christmas Carol. Album phòng thu thứ hai của anh ? được phát hành vào tháng 3 năm 2018 và ra mắt tại vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng Billboard 200. Đã có hai đĩa đơn được phát hành từ album này: "Sad!", được chứng nhận hai lần Bạch kim bởi RIAA, và "Changes", được RIAA chứng nhận Bạch kim.
Một số nguồn tham khảo trong đoạn có thể không đáp ứng được tiêu chuẩn về nguồn đáng tin cậy. Bạn có thể giúp cải thiện bài viết này bằng cách tìm kiếm các nguồn tham khảo tốt hơn, đáng tin cậy hơn. Các nguồn không đáng tin cậy có thể bị nghi vấn hoặc bị xóa.(Tháng 6 năm 2018) (Tìm hiểu cách thức và thời điểm xóa thông báo này)
Danh sách những lần xuất hiện khách mời không phát hành đĩa đơn, với năm phát hành và tên album
^"Gospel" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[44]
^"Gospel" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng NZ Heatseeker Singles Chart.[45]
^"Revenge" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng NZ Heatseeker Singles Chart.[46]
^"Again" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[58]
^"Everybody Dies in Their Nightmares" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng NZ Heatseeker Singles Chart.[61]
^"Orlando" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[58]
^"Orlando" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[44]
^"Dead Inside (Interlude)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[58]
^"Dead Inside (Interlude)" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[44]
^"A Ghetto Christmas Carol" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ 13 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[58]
^"A Ghetto Christmas Carol" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ tư trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[44]
^"Alone, Part 3" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[58]
^"The Remedy for a Broken Heart (Why Am I So in Love)" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng NZ Heatseeker Singles Chart.[63]
^"Infinity (888)" không lọt vào bảng xếp hạng NZ Top 40 Singles Chart, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng NZ Heatseeker Singles Chart.[63]
^"Infinity (888)" không lọt vào bảng xếp hạng Swedish Singellista, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Swedish Heatseeker.[64]
^"$$$" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[58]
^"Smash!" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ 24 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[58]
^"Smash!" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ tám trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[44]
^"I Don't Even Speak Spanish LOL" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ 13 trên bảng xếp hạng Bubbling Under Hot 100 Singles.[58]
^"I Don't Even Speak Spanish LOL" không lọt vào bảng xếp hạng Billboard Hot R&B/Hip-Hop Songs, nhưng đạt cao nhất vị trí thứ ba trên bảng xếp hạng Bubbling Under R&B/Hip-Hop Singles.[44]
^“NZ Heatseeker Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 29 tháng 5 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2017.
^“NZ Heatseeker Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 2 tháng 10 năm 2017. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2017.
^“FIMI – Certificazioni”. Federazione Industria Musicale Italiana. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2018.
^ ab“NZ Top 40 Singles Chart”. Recorded Music NZ. ngày 26 tháng 3 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2018.
Ông Nobi Nobisuke hay còn được gọi là Bố của Nobita được tác giả Fujiko F. Fujio mô tả qua những câu truyện là một người đàn ông trung niên với công việc công sở bận rộn