Vương quốc Hồi giáo Dar Sila
|
|||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||
Thế kỷ 15–1916 | |||||||||
Thủ đô | Goz Beïda | ||||||||
Ngôn ngữ quốc gia được công nhận | Tiếng Daju Dar Sila | ||||||||
Tôn giáo chính | Hồi giáo | ||||||||
Tên dân cư | Người Daju Dar Sila | ||||||||
Chính trị | |||||||||
Chính phủ | Quân chủ | ||||||||
Lịch sử | |||||||||
Thời kỳ | Cận đại | ||||||||
• Thành lập | Thế kỷ 15 | ||||||||
• Giải thể | 1916 | ||||||||
| |||||||||
Hiện nay là một phần của | Tchad |
Vương quốc Hồi giáo Dar Sila (Dār Sīla, tiếng Ả Rập: سلطنة دار صلة) là một nhà nước tự trị giữa các đế quốc Wadai và Darfur ở khu vực ngày nay là Tchad. Đến năm 1916, nó cuối cùng bị sáp nhập vào thuộc địa Tchad thuộc Pháp. Vương quốc thỉnh thoảng được gọi là Dār Dājū, theo tên nhóm sắc tộc cầm quyền. Thị trấn chính là Goz Beïda, cách Abéché khoảng 180 km về phía nam.
Vào thế kỷ 15, người Tunjur đặt chân đến Darfur (ngày nay thuộc Cộng hòa Sudan), định cư ở vùng phía bắc Jebel Marra và cai trị đồng thời với Vương quốc Daju một thời gian.[1] Cuối cùng, họ đã nắm hoàn toàn quyền lực dù không rõ trong hoàn cảnh nào,[2] khiến vị vua Daju cuối cùng, tên được ghi nhận chủ yếu theo truyền thống địa phương là Ahmad al-Daj,[3] phải chạy trốn đến Tchad ngày nay, nơi những người kế vị ông xưng là sultan của Dar Sila.[4] Những người Daju ở Dar Sila ngày nay cho rằng tổ tiên họ đã di cư từ Darfur đến Chad vào thế kỷ 18, nhưng điều này thiếu chính xác vì quá muộn nếu xét về mặt lịch sử. Thay vào đó, Balfour Paul[5] cho rằng cuối thế kỷ 15 là thời điểm thích hợp hơn.[4]