Emmanuelle Béart

Emmanuelle Béart
Béart năm 2000
Nghề nghiệpDiễn viên
Hôn nhânDaniel Auteuil 1993-1998
Michaël Cohen 2008 tới nay

Emmanuelle Béart (sinh ngày 14.8.1963[1]) là nữ diễn viên người Pháp, đã xuất hiện trên hơn 50 phim và sản phẩm truyền hình từ năm 1972. Béart đã đoạt một giải César cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất cho vai diễn trong phim Manon des Sources (1986). Cô cũng được đề cử 7 lần cho giải César cho nữ diễn viên triển vọnggiải César cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất.

Thời niên thiếu

[sửa | sửa mã nguồn]

Béart có tên khai sinh là Emmanuelle Béhart-Hasson sinh tại Saint Tropez (vài nguồn nói là tại Gassin), ở vùng Riviera thuộc Pháp, là con gái của Geneviève Galéa - một cựu người mẫu - và Guy Béart, một ca sĩ kiêm thi sĩ.[2] Mẹ của Beart là người có 3 dòng máu Hy Lạp,[3] Malta,[4]Croatia,[5][6] còn người cha sinh trong một gia đình Do Thái[7][8] – có tổ tiên là người Tây Ban Nha,[9] Thụy SĩNga.[10]

Ở tuổi 15, côị được gia đình gửi sang Montréal để học tiếng Anh trong vài năm.[11]

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Béart được nhận vai diễn trong phim Tomorrow's Children năm 1976. Ở tuổi thanh thiếu niên, cô xuất hiện trong các đoạn ngắn trên truyền hình, sau đó sang Montréal, Canada làm cô giữ trẻ. Năm sau, cô trở về Pháp để theo học trường kịch nghệ ở Paris. Một thời gian ngắn sau, cô diễn xuất vai người lớn đầu tiên trong một phim, và năm 1986, cô trở nên nổi tiếng trong vai diễn đối diện với Yves Montand trong phim Manon des Sources. Phim này đã mang lại cho cô Giải César cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất năm 1987. Cô cũng đoạt "Giải nữ diễn viên xuất sắc nhất" tại Liên hoan phim quốc tế Moskva cho vai chính trong phim A French Woman năm 1995.

Ngoài ra, cô cũng được đề cử cho 7 giải César trong các thể loại giải César cho nữ diễn viên triển vọnggiải César cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất trong các phim dưới đây:

Đề cử giải César cho nữ diễn viên triển vọng:

Đề cử giải César cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất:

Tháng 5 năm 2003, Béart, ở tuổi 39, đã xuất hiện khỏa thân cùng với một người đàn ông trẻ hơn trên tạp chí Elle của Pháp[12] và cho tới năm 2007, số tạp chí này (tức số tháng 5 năm 2003) vẫn là số tạp chí bán chạy hơn mọi số phát hành khác.

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]

Vào giữa thập niên 1980, cô bắt đầu quan hệ với Daniel Auteuil (nam diễn viên đồng diễn vai chính với cô trong các phim Love on the Quiet, Manon des Sources, A Heart in WinterA French Woman). Họ kết hôn năm 1993, nhưng ly dị năm 1998. Béart cũng có quan hệ lãng mạn với nhà sản xuất nhạc David Moreau (từ năm 1995 sau khi ly thân với Auteuil)[11][13] và với nhà sản xuất phim Vincent Meyer trong 2 năm cho tới khi anh ta tự tử trong tháng 5 năm 2003.[12] Cô có hai con: Nelly Auteuil (sinh năm 1993), và Johan Moreau (sinh năm 1996).[11] Cô tái hôn với nam diễn viên Michaël Cohen ngày 13 tháng 8 năm 2008.[13]

Ngoài việc diễn xuất, Béart cũng nổi tiếng về các hoạt động xã hội. cô là đại sứ cho Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc, và đã trở thành tin thời sự khi cô chống đối dự luật chống nhập cư vào Pháp. Năm 1996, cô được đưa tin trên trang nhất khi bảo vệ quyền của các người "không có giấy tờ tùy thân" (các người nhập cư lậu), cô đã bị đưa ra ngoài sau khi nhóm của cô chiếm đóng nhà thờ Saint-Bernard de la Chapelle de Paris.

Danh mục phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Le grand Poucet (1980)
  • Zacharius (1984)
  • Raison perdue (1984)
  • La femme de sa vie (1986)
  • Et demain viendra le jour (1986)
  • Les jupons de la révolution (1 episode, 1989)

Vinyan 2008

Sách viết về Béart

[sửa | sửa mã nguồn]
  • Gaffez, Fabien (ngày 10 tháng 3 năm 2005). Emmanuelle Béart. Nouveau Monde Editions. ISBN 978-2847360905.

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ Birth certificate n° 68/1963, LES GENS DU CINEMA Retrieved ngày 24 tháng 3 năm 2010
  2. ^ “Emmanuelle Beart Biography (1965–)”. Film Reference. Truy cập ngày 11 tháng 5 năm 2009.
  3. ^ Henley, Jon (ngày 17 tháng 10 năm 2007). “The kiss of death”. The Guardian. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2021.
  4. ^ Dupont, Joan (ngày 23 tháng 5 năm 2004). “WORLD CINEMA; She's comfortable in her own skin; Emmanuelle Beart is happy to be nude on screen, as long as the role challenges her”. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  5. ^ Elle, #3105, ngày 4 tháng 6 năm 2005
  6. ^ “Have coffee with an icon of the French cinema” (PDF). Nespresso magazine. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2009.
  7. ^ “Report: Belgian far-right leader resigns over Holocaust song”. Haaretz. 11 tháng 8 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  8. ^ 30 tháng 10 năm 2008/57490.html “EMMANUELLE BÉART À L'EXPRESSION: Le cinéma, un long chemin fait de rencontres” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). 30 Octobre 2008. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)[liên kết hỏng]
  9. ^ REES, JASPER (ngày 12 tháng 7 năm 2004). “carry on emmanuelle; Since she danced naked in Manon des Sources 20 years ago, actress Emmanuelle Béart has become as famous for taking her clothes off as she has been for her talent. And at 39, she tells Jasper Rees, she doesn't regret a thing”. The Evening Standard (London, England). HighBeam Research. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2011.
  10. ^ Jardine, Cassandra (ngày 17 tháng 5 năm 2004). 'Sometimes, I am like a whore'. Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 10 năm 2006. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2021.
  11. ^ a b c “Emmanuelle Beart”. Turner Classic Movies. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2010.
  12. ^ a b “EMMANUELLE BEART – ACTRESS CONCEALS GRIEF AT CANNES”. Contactmusic.com. ngày 25 tháng 5 năm 2003. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2010.
  13. ^ a b “Manon of the Spring”. SuperiorPics.com. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2010.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Giới thiệu về Kakuja - Tokyo Ghou
Giới thiệu về Kakuja - Tokyo Ghou
Kakuja (赫者, red one, kakuja) là một loại giáp với kagune biến hình bao phủ cơ thể của ma cà rồng. Mặc dù hiếm gặp, nhưng nó có thể xảy ra do ăn thịt đồng loại lặp đi lặp lại
Trạng thái tốt nhất của một sinh viên đại học là gì?
Trạng thái tốt nhất của một sinh viên đại học là gì?
Ai cũng có một thời sinh viên thật đẹp và những điều gì sẽ làm trạng thái của bạn trở lên hoàn hảo
Chu Kỳ Bitcoin Halving: Sự Kiện Định Hình Tương Lai Crypto
Chu Kỳ Bitcoin Halving: Sự Kiện Định Hình Tương Lai Crypto
Phát triển, suy thoái, và sau đó là sự phục hồi - chuỗi vòng lặp tự nhiên mà có vẻ như không một nền kinh tế nào có thể thoát ra được
[Review] Soushuu Senshinkan Hachimyoujin: Common Route – First Impression
[Review] Soushuu Senshinkan Hachimyoujin: Common Route – First Impression
Là sản phẩm tiếp theo nằm trong Shinza Bansho của Masada sau Paradise Lost, Dies Irae, Kajiri Kamui Kagura