Phát triển bởi | GNOME Project |
---|---|
Phát hành lần đầu | 6 tháng 4 năm 2011 |
Phiên bản ổn định | 42.3.1
|
Kho mã nguồn | |
Viết bằng | JavaScript và C[1] |
Hệ điều hành | Tương tự Unix |
Ngôn ngữ có sẵn | 75 ngôn ngữ[2] |
Danh sách ngôn ngữ Afrikaans, Arabic, Aragonese, Assamese, Asturian, Basque, Belarusian, Bengali, Bosnian, Brazilian Portuguese, British English, Bulgarian, Catalan, Chinese, Czech, Danish, Dutch, Esperanto, Estonian, Finnish, French, Friulian, Galician, German, Greek, Gujarati, Hebrew, Hindi, Hungarian, Icelandic, Indonesian, Interlingua, Irish, Italian, Japanese, Kannada, Kazakh, Khmer, Kirghiz, Korean, Kurdish, Latvian, Lithuanian, Macedonian, Malay, Malayalam, Marathi, Nepali, Norwegian Bokmål, Norwegian Nynorsk, Occitan, Oriya, Persian, Polish, Portuguese, Punjabi, Romanian, Russian, Scottish Gaelic, Serbian, Serbian Latin, Sinhala, Slovak, Slovenian, Spanish, Swedish, Tajik, Tamil, Telugu, Thai, Turkish, Uighur, Ukrainian, Uzbek (Cyrillic), Vietnamese | |
Thể loại | |
Giấy phép | GPL |
Website | wiki |
Trạng thái | Active |
GNOME Shell là lớp vỏ đồ họa của GNOME bắt đầu từ phiên bản 3,[3] được phát hành vào ngày 6/4/ 2011. Nó cung cấp các tính năng cơ bản như khởi động ứng dụng, chuyển đổi giữa các của sổ và cũng như là một widget engine. GNOME Shell thay thế GNOME Panel[4] và một vài tính năng phụ̣ trợ trong GNOME 2.
GNOME Shell được viết bằng C và JavaScript như một plugin cho Mutter.
Giống như các lớp vỏ đồ họa (graphical front-end/graphical shell/UX/UI) của môi trường desktop GNOME, nó được thiết kế và hướng dẫn bởi GNOME UX Design Team.[5]
GNOME Shell bao gồm các yếu tố đồ họa và tính năng sau:
GNOME Shell được tích hợp chặt chẽ với Mutter, một tổ hợp quản lý của sổ và trình biên soạn Wayland. Nó dựa trên Clutter để cung cấp hiệu ứng hình ảnh và khả năng tăng tốc phần cứng.[6] Theo bảo trì viên GNOME Shell[7] Owen Taylor, Nó được thiết lập như là một plugin của Mutter phần lớn được viết bằng JavaScript[8] và dùng GUI widgets cung cấp bởi GTK+ 3.
Những thay đổi về giao diện người dùng (UI) bao gồm, nhưng không giới hạn:
Các chức năng của GNOME Shell có thể được thay đổi với plugin, có thể được viết bằng JavaScript. Người dùng có thể tìm thấy và cài đặt các tiện ích mở rộng bằng cách sử dụng website GNOME extensions. Một số trong những tiện ích được lưu trữ trong kho Git của GNOME, mặc dù chúng không phải chính thức.[13]
GNOME Shell đã nhận được nhiều phản ứng trái chiều: Nó bị chỉ trích vì nhiều lý do,chủ yếu liên quan đến quyết định thiết kế và sự rút gọn các user control trong môi trường. Ví dụ, người dùng trong cộng đồng phần mềm tự do dấy lên lo ngại rằng kế hoạch tích hợp sâu với Mutter sẽ có nghĩa rằng người dùng GNOME Shell không thể chuyển đổi sang trình quản lý của sổ khác mà không gây gây ra lỗi. Đặc biệt, người dũng có thể không thể sử dụng được Compiz với GNOME Shell trong khi vẫn giữ quyền truy cập vào cùng loại của các tính năng mà phiên bản cũ của GNOME được phép.[23]
Các đánh giá chung đã trở nên tích cực hơn theo thời gian, với các phát hành sắp tới sẽ giải quyết nhiều phiền toái được thông báo bởi người dùng.[24][25]
Concept đầu tiên của GNOME Shell đã được đưa ra tại GNOME's User Experience Hackfest 2008 ở Boston.[26][27][28]
Sau những chỉ trích của cộng đồng những người dùng GNOME desktop truyền thống và những cáo buộc về sự trì trệ và thiếu tầm nhìn,[29] kết quả của các cuộc thảo luận dẫn đến việc công bố GNOME 3.0 tháng 4/2009.[30] Từ đó Red Hat động lực chính cho sự phát triển của GNOME Shell.[31]
Bản tiền phát hành đầu tiên của GNOME Shell có sẵn vào tháng 8/2009[32] và trở thành chính thức, nhưng không phải mặc định của GNOME trong phiên bản 2.28 tháng 9/2009.[33] Nó chính thức được phân phối như giao diện người dùng mặc định của GNOME vào ngày 6/4/2011.[34][35]
|chapter=
ignored (help)
gnome-shell is set up as a Mutter plugin that is largely written in JavaScript
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “arch-gnome” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “behind-the-scenes” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “debian-sid” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “debian-wheezy” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “fedora-features” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “gnome-3-planning” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “gnome3-fallback” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “live-extensions” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “mageia-rn” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “metacity-mutter-shell-2.28” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “mutter-gnome-future” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “mutter-in-js” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “opensuse-12.1” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
Lỗi chú thích: Thẻ <ref>
có tên “shell-replaces-panel” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.
<ref>
có tên “ubuntu-pkg” được định nghĩa trong <references>
có tên “” không có nội dung.