![]() Thiết giáp hạm HMS Anson (79) tại cảng Devonport, tháng 3 năm 1945
| |
Lịch sử | |
---|---|
![]() | |
Đặt tên theo | Đô đốc George Anson |
Xưởng đóng tàu | Swan Hunter, Wallsend |
Đặt lườn | 20 tháng 7 năm 1937 |
Hạ thủy | 24 tháng 2 năm 1940 |
Hoạt động | 22 tháng 6 năm 1942 |
Ngừng hoạt động | tháng 11 năm 1951 |
Xóa đăng bạ | 18 tháng 5 năm 1957 |
Số phận | Bị bán để tháo dỡ năm 1957 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | Lớp thiết giáp hạm King George V |
Trọng tải choán nước |
|
Chiều dài |
|
Sườn ngang | 31,4 m (103 ft 2 in) |
Mớn nước | 10,5 m (34 ft 4 in) |
Động cơ đẩy | |
Tốc độ | 54 km/h (29,25 knot) |
Tầm xa |
|
Thủy thủ đoàn |
|
Vũ khí |
|
Bọc giáp |
|
Máy bay mang theo | 2 × thủy phi cơ Supermarine Walrus |
Hệ thống phóng máy bay | 1 × máy phóng hai đầu (tháo dỡ đầu năm 1944) |
HMS Anson (79) là một thiết giáp hạm thuộc lớp King George V của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo vào lúc Chiến tranh Thế giới thứ hai sắp nổ ra, và kịp hoàn tất để tham gia một số hoạt động trong cuộc chiến này.
Anson được đặt tên theo Đô đốc George Anson. Được đặt lườn tại xưởng đóng tàu của hãng Swan Hunter tại Wallsend vào ngày 20 tháng 7 năm 1937 và được hạ thủy vào ngày 24 tháng 2 năm 1940; thoạt tiên con tàu được đặt tên theo Đô đốc John Jellicoe, chỉ huy Hạm đội Grand trong trận Jutland, nhưng sau đó được đổi tên thành Anson vào tháng 2 năm 1940.
Anson được đưa ra hoạt động vào ngày 22 tháng 6 năm 1942, giữa lúc cao trào của Chiến tranh Thế giới thứ hai; đảm trách nhiệm vụ hộ tống cho các đoàn tàu vận tải đi đến Liên Xô cũng như là soái hạm của Phó Đô đốc Sir Henry Moore trong Chiến dịch Tungsten.[2] Đến năm 1945, Anson là soái hạm của Hải đội Thiết giáp hạm 1 thuộc Hạm đội Thái Bình Dương. Sau khi chiến tranh kết thúc, vào năm 1946, Anson di chuyển từ Sydney đến Hobart để đón Công tước và Nữ công tước Gloucester đưa họ đến Sydney.
Cùng với ba chiếc khác còn lại trong lớp, Anson được cho ngừng hoạt động vào năm 1951 và được tháo dỡ vào năm 1957 tại hãng Shipbreaking Industries, Ltd. ở Faslane, Scotland.