Hiến pháp Ấn Độ | |
---|---|
Bản gốc của lời mở đầu | |
Quyền hạn | Ấn Độ |
Phê chuẩn | 26 tháng 11 năm 1949 |
Hiệu lực | 26 tháng 1 năm 1950 |
Hệ thống | Cộng hòa lập hiến Đại nghị Liên bang |
Trụ sở | Ba (Hành pháp, Lập pháp và Tư pháp) |
Viện | Hai (Rajya Sabha và Lok Sabha) |
Quyền hành | Nội các của Thủ tướng chịu trách nhiệm trước hạ viện của quốc hội |
Tư pháp | Tòa án tối cao, tòa án cấp cao và tòa án quận |
Định lý phân quyền | Liên bang[1] |
Đại cử tri đoàn | Có, cho bầu cử tổng thống và phó tổng thống |
Cố thủ | 2 |
Sửa đổi | 104 |
Sửa đổi lần cuối | 25 tháng 1 năm 2020 (thứ 104) |
Địa điểm | Tòa nhà Quốc hội, New Delhi, Ấn Độ |
Người tạo | Benegal Narsing Rau Cố vấn Hiến pháp cho Quốc hội Lập hiến B. R. Ambedkar |
Người ký | 284 thành viên của Hội đồng Lập hiến |
Thay thế | Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1935 Đạo luật Ấn Độ Độc lập 1947 |
Hiến pháp Ấn Độ (IAST: Bhāratīya Saṃvidhāna) là luật pháp tối cao của Ấn Độ.[3][4] Văn bản này đặt nền móng cho những quy tắc, cấu trúc, quy trình, quyền lực và nghĩa vụ chính trị cơ bản của các tổ chức chính phủ và đặt ra những quyền và nghĩa vụ của công dân nước này. Hiến pháp Ấn Độ là bản hiến pháp dài nhất trên thế giới.[a][5][6][7]
Bộ luật mang tính quyền lực tối cao hiến pháp (không phải quyền lực tối cao quốc hội, do nó được soạn bởi hội đồng lập hiến chứ không phải quốc hội) và được sử dụng bởi người dân với một tuyên bố trong lời mở đầu.[8] Quốc hội không thể vô hiệu hiến pháp.
Bản hiến pháp được Hội đồng Lập hiến Ấn Độ thông qua ngày 26 tháng 11 năm 1949 và có hiệu lực từ ngày 26 tháng 1 năm 1950.[9] Bản hiến pháp thay thế cho Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1935 làm văn bản cai trị đất nước, và Lãnh thổ tự trị Ấn Độ trở thành Cộng hòa Ấn Độ.[10] Ấn Độ lấy ngày 26 tháng 1 làm Ngày Cộng hòa.[11]
Hiến pháp tuyên bố Ấn Độ là một nước cộng hòa chủ quyền, xã hội chủ nghĩa, thế tục,[12] và dân chủ, đảm bảo công lý, bình đẳng và tự do cho mọi công dân, và nỗ lực hướng tới sự đoàn kết.[13] Bản hiến pháp gốc năm 1950 được lưu giữ trong một hộp chứa khí heli đặt tại Tòa nhà Quốc hội ở New Delhi. Các từ "thế tục" và "xã hội chủ nghĩa" được thêm vào lời mở đầu của Hiến pháp bởi đạo luật sửa đổi số 42, trong giai đoạn Khẩn cấp năm 1976.[14]
Năm 1928, Hội nghị Các bên tổ chức một ủy ban ở Lucknow để chuẩn bị cho việc soạn thảo hiến pháp Ấn Độ, còn được gọi là Báo cáo Nehru.[15]
Hầu hết thuộc địa Ấn Độ nằm dưới ách cai trị của Anh từ năm 1857 đến năm 1947, khi Ấn Độ được trao trả độc lập. Từ năm 1957 đến 1950, các điều luật cũ tiếp tục có hiệu lực vì Ấn Độ là một lãnh thổ tự trị của Anh trong khoảng thời gian này, do mỗi phiên vương quốc theo lời kêu gọi của Sardar Patel và V. P. Menon đã ký điều khoản hợp nhất với Ấn Độ, và chính phủ Vương quốc Anh tiếp tục chịu trách nhiệm cho an ninh ngoại bang của đất nước.[16] Do vậy, hiến pháp Ấn Độ thay thế Đạo luật Ấn Độ Độc lập 1947 và Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1935 khi nó có hiệu lực ngày 26 tháng 1 năm 1950. Kể từ ngày đó Ấn Độ không còn là lãnh thổ tự trị của Vương miện Anh và trở thành một nước cộng hòa dân chủ độc lập. Điều 5, 6, 7, 8, 9, 60, 324, 366, 367, 379, 380, 388, 391, 392, 393, và 394 của hiến pháp có hiệu lực từ ngày 26 tháng 11 năm 1949, và phần còn lại vào ngày 26 tháng 1 năm 1950.[17]
Bản hiến pháp lấy cơ sở từ nhiều văn bản trước đó. Những người soạn thảo mượn nhiều ý tưởng của những bộ luật trước như Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1858, Đạo luật Hội đồng Ấn Độ 1861, 1892 và 1909, Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1919 và 1935, và Đạo luật Ấn Độ Độc lập 1947. Đạo luật cuối cùng năm 1947 dẫn đến sự chia tách giữa Ấn Độ và Pakistan, đồng thời chia Hội đồng Lập hiến làm hai. Mỗi hội đồng mới có quyền soạn thảo và ban hành hiến pháp của mỗi nước.[18]
Hiến pháp được soạn thảo bởi Hội đồng Lập hiến, được chọn bởi những ứng viên được bầu trong hội đồng cấp tỉnh.[19] Hội đồng với 389 thành viên (giảm còn 299 sau cuộc chia cắt Ấn Độ) mất gần ba năm để soạn thảo hiến pháp, qua mười một phiên họp trong khoảng thời gian dài 165 ngày.[5][18]
Chuyên gia về hiến pháp B. R. Ambedkar đã nghiên cứu hiến pháp của 60 quốc gia, và được coi là "Cha đẻ của Hiến pháp Ấn Độ".[20][21] Trong hội đồng lập hiến, một thành viên của ủy ban soạn thảo, T. T. Krishnamachari nói:
"Thưa Ngài Tổng thống, tôi là một trong những người trong Hạ viện đã lắng nghe Tiến sĩ Ambedkar rất cẩn thận. Tôi nhận thức được khối lượng công việc và tâm huyết mà ông ấy đã mang đến cho công việc soạn thảo Hiến pháp này.
Đồng thời, tôi nhận thấy rằng sự chú ý cần thiết cho mục đích soạn thảo hiến pháp rất quan trọng đối với chúng tôi tại thời điểm này đã không được Ban soạn thảo dành cho nó. Có lẽ Hạ viện biết rằng trong số bảy thành viên do Ngài đề cử, một người đã xin từ chức khỏi Hạ viện và được thay thế.
Một người đã qua đời và chỗ của anh ta không được thay thế. Một người đang ở Mỹ và không có ai thay thế vị trí của anh ta và một người khác đang tham gia vào các công việc của Nhà nước, và có một khoảng trống đến mức đó. Một hoặc hai người đang ở xa Dê-li, và có lẽ vì lý do sức khỏe đã không cho phép họ tham dự. Vì vậy, cuối cùng đã xảy ra rằng gánh nặng soạn thảo hiến pháp này đổ lên vai Tiến sĩ Ambedkar và tôi không nghi ngờ gì rằng chúng tôi biết ơn ông ấy vì đã hoàn thành nhiệm vụ này một cách chắc chắn là đáng khen ngợi."[22][23]
Nevertheless, partition increased the dominance of the Congress Party in the constituent assembly, which in turn made it easier for its leadership to incorporate in the constitution elements of its vision of Indian unity. This vision was based on a decades-long period of Congress-led consultation concerning the future independent constitution. More importantly, it rested on a detailed draft constitution adopted in 1928 by the All Parties Conference that met in Lucknow. The draft, known as the "Nehru Report," was written by a seven-member committee, chaired by Motilal Nehru. ... The committee was appointed during the May 1928 meeting of the All Parties Conference, which included representatives of all the major political organizations in India, including the All-India Hindu Mahasabha, the All-India Muslim League, the All-India Liberal Federation, the States' Peoples Conference, The Central Khalifat Committee, the All-India Conference of Indian Christians, and others.
Từ điển từ Wiktionary | |
Tập tin phương tiện từ Commons | |
Tin tức từ Wikinews | |
Danh ngôn từ Wikiquote | |
Văn kiện từ Wikisource | |
Tủ sách giáo khoa từ Wikibooks | |
Tài nguyên học tập từ Wikiversity |