Hiệp ước Kellogg-Briand

Hiệp ước Kellogg-Briand (hay Hiệp ước Paris, chính thức là Hiệp ước chung về từ bỏ chiến tranh với tư cách là một công cụ của chính sách quốc gia [1]) là một thỏa thuận quốc tế năm 1928, trong đó các quốc gia ký kết hứa sẽ không sử dụng chiến tranh để giải quyết "tranh chấp hoặc xung đột về bất cứ điều gì bản chất hoặc bất cứ nguồn gốc nào có thể, mà phát sinh giữa các quốc gia này". Không có cơ chế để chế tài các quy định của Hiệp ước. Các bên không tuân thủ lời hứa này "nên bị từ chối các lợi ích được cung cấp bởi [hiệp ước]". Nó được ký bởi Đức, Pháp và Hoa Kỳ vào ngày 27 tháng 8 năm 1928 và bởi hầu hết các quốc gia khác ngay sau đó. Được tài trợ bởi Pháp và Mỹ, Hiệp ước đã từ bỏ việc sử dụng chiến tranh và kêu gọi giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. Các điều khoản tương tự đã được đưa vào Hiến chương Liên Hợp Quốc và các hiệp ước khác, và nó trở thành bước đệm cho một chính sách tích cực hơn của Mỹ.[2] Nó được đặt theo tên của các tác giả của nó, Ngoại trưởng Hoa Kỳ Frank B. KelloggBộ trưởng Ngoại giao Pháp Aristide Briand. Hiệp ước đã được ký kết bên ngoài Liên minh các quốc gia và hiện vẫn có hiệu lực.[3]

Một lời chỉ trích phổ biến là KelloggTHER Briand Pact đã không đạt tới tất cả các mục tiêu của nó, nhưng được cho là đã có một số thành công.[4] Nó không chấm dứt chiến tranh, cũng không ngăn được sự trỗi dậy của chủ nghĩa quân phiệt và không thể ngăn chặn Chiến tranh thế giới thứ hai.[5] Hiệp ước đã bị chế giễu vì chủ nghĩa đạo đức và luật pháp và thiếu ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại. Hơn nữa, nó đã xóa hiệu quả sự phân biệt pháp lý giữa chiến tranh và hòa bình vì các bên ký kết bắt đầu tiến hành chiến tranh mà không tuyên bố chúng.[6]

Các điều khoản trung tâm của hiệp ước từ bỏ việc sử dụng chiến tranh, và thúc đẩy giải quyết tranh chấp hòa bình và sử dụng lực lượng tập thể để ngăn chặn sự xâm lược, đã được đưa vào Hiến chương Liên Hợp Quốc và các hiệp ước khác. Mặc dù các cuộc nội chiến vẫn tiếp diễn, các cuộc chiến giữa các quốc gia được thành lập là rất hiếm kể từ năm 1945, với một vài ngoại lệ ở Trung Đông.[2] Một hậu quả pháp lý là không khuyến khích thôn tính lãnh thổ bằng vũ lực, mặc dù các hình thức thôn tính khác chưa được ngăn chặn. Rộng hơn, một số tác giả cho rằng hiện nay có một giả định mạnh mẽ chống lại tính hợp pháp của việc sử dụng, hoặc đe dọa, lực lượng quân sự chống lại một quốc gia khác.[7] Hiệp ước này cũng là cơ sở pháp lý cho khái niệm tội ác chống lại hòa bình, mà Tòa án NichebalTòa án Tokyo đã xét xử và xử tử các nhà lãnh đạo hàng đầu chịu trách nhiệm bắt đầu Thế chiến II.[8]

Nhiều nhà sử học và các nhà khoa học chính trị coi hiệp ước này hầu như không có ý nghĩa và không hiệu quả.[9]

Với việc ký Nghị định thư Litvinov tại Moscow vào ngày 9 tháng 2 năm 1929, Liên Xô và các nước láng giềng phương Tây, bao gồm Rumani đã đồng ý đưa Hiệp ước Kellogg-Briand có hiệu lực mà không cần chờ các bên ký kết phương Tây khác phê chuẩn.[10] Vấn đề Bessarabian đã đưa ra thỏa thuận giữa Romania và Liên Xô thách thức và tranh chấp giữa các quốc gia đối với Bessarabia vẫn tiếp tục.[11][12]

Tham khảo

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ See certified true copy of the text of the treaty in League of Nations, Treaty Series, vol. 94, p. 57 (No. 2137)
  2. ^ a b Josephson, Harold (1979). “Outlawing War: Internationalism and the Pact of Paris”. Diplomatic History. 3 (4): 377–390. doi:10.1111/j.1467-7709.1979.tb00323.x.
  3. ^ Westminster, Department of the Official Report (Hansard), House of Commons. “House of Commons Hansard Written Answers for 16 Dec 2013 (pt 0004)”. publications.parliament.uk.
  4. ^ MARSH, NORMAN S. (1963). “BOOK REVIEWS”. International and Comparative Law Quarterly. 12 (3): 1049–1050. doi:10.1093/iclqaj/12.3.1049. ISSN 0020-5893.
  5. ^ “The Kellogg-Briand Pact, 1928”. Milestones in the History of U.S. Foreign Relations. Office of the Historian, United States Department of State. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2017.
  6. ^ Quigley, Carroll (1966). Tragedy And Hope. New York: Macmillan. tr. 294–295.
  7. ^ Silke Marie Christiansen (2016). Climate Conflicts - A Case of International Environmental and Humanitarian Law. Springer. tr. 153. ISBN 9783319279459.
  8. ^ Kelly Dawn Askin (1997). War Crimes Against Women: Prosecution in International War Crimes Tribunals. tr. 46. ISBN 978-9041104861.
  9. ^ “There's Still No Reason to Think the Kellogg-Briand Pact Accomplished Anything”. Foreign Policy. Truy cập ngày 29 tháng 12 năm 2017.
  10. ^ Deletant, Dennis (ngày 12 tháng 4 năm 2006). Hitler's Forgotten Ally: Ion Antonsecu and his Regime, Romania, 1940-1944. Springer. ISBN 0230502091. Truy cập ngày 7 tháng 8 năm 2019.
  11. ^ von Rauch, Georg (1962). A History of Soviet Russia. Praeger. tr. 208. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2019.
  12. ^ King, Charles (2013). The Moldovans: Romania, Russia, and the Politics of Culture. Hoover Institution Press. tr. 39. ISBN 978-0817997939. Truy cập ngày 8 tháng 8 năm 2019.
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Nigredo trong Overlord
Nhân vật Nigredo trong Overlord
Nigredo là một Magic Caster và nằm trong những NPC cấp cao đứng đầu danh sách của Nazarick
Lịch Sử fun facts: cái tên Ivan của người Nga!
Lịch Sử fun facts: cái tên Ivan của người Nga!
Gần như ai cũng biết, khi nói về 1 người Nga bất kỳ ta mặc định anh ta là Ivan
Tóm tắt chương 221: Cho và nhận - Jujutsu Kaisen
Tóm tắt chương 221: Cho và nhận - Jujutsu Kaisen
Bài viết sẽ tiết lộ nội dung truyện tuy nhiên thì các bạn chắc cũng biết luôn rồi: Gojo Satoru quay trở lại
Giới thiệu Burglar - Sư phụ Goblin Slayer
Giới thiệu Burglar - Sư phụ Goblin Slayer
Sau thảm kịch xảy ra với chị gái và ngôi làng của mình, Goblin Slayer được một mạo hiểm giả tộc Rhea cứu giúp