Luật Nhân đạo quốc tế |
---|
Tòa án |
Nguyên tắc |
Hiệp định |
Tòa án Quân sự Quốc tế Viễn Đông (tiếng Anh: The International Military Tribunal for the Far East (IMTFE)) còn được gọi là các phiên tòa Tokyo hay Tòa án Tội ác Chiến tranh Tokyo, đã được triệu tập vào ngày 29 tháng 4 năm 1946 để xét xử giới lãnh đạo của Đế quốc Nhật với ba loại tội ác chiến tranh. "Loại A" dành cho những kẻ đã tham gia vào những âm mưu chung nhằm phát động chiến tranh, loại này gồm những người có quyền hành cao nhất; "loại B" dành cho những kẻ phạm phải những tội ác "thông thường" ("conventional") hoặc tội ác chống lại loài người; "loại C" dành cho những kẻ "lên kế hoạch, ra lệnh, cho phép, hoặc không chống lại các tội ác như trên ở những cấp chỉ huy cao hơn."
Tòa án được thành lập để thực hiện Tuyên bố Cairo , Tuyên bố Potsdam , Văn kiện đầu hàng và Thông cáo Liên Xô - Anh - Mỹ[1] [2]. Tuyên bố Potsdam (tháng 7 năm 1945) đã tuyên bố, “công lý nghiêm khắc sẽ được thực thi đối với tất cả tội phạm chiến tranh, bao gồm cả những kẻ đã hành hạ các tù nhân của chúng ta một cách tàn ác”[3] mặc dù nó không báo trước một cách cụ thể các phiên tòa. Các điều khoản tham chiếu của Tòa án được quy định trong Hiến chương IMTFE, ban hành ngày 19 tháng 1 năm 1946[4]. Có sự bất đồng lớn, cả giữa các nước Đồng minh và trong nội bộ Chính quyền mỗi quốc gia, về việc phải cử ai và dựa trên nguyên tắc nào. Mặc dù chưa có sự đồng thuận, nhưng Thống Tướng Douglas MacArthur , Tư lệnh Tối cao của Lực lượng Đồng minh, đã quyết định tiến hành các vụ bắt giữ. Vào ngày 11 tháng 9, một tuần sau khi đầu hàng, ông ra lệnh bắt giữ 39 nghi phạm-hầu hết là thành viên nội các chiến tranh của Tướng Hideki Tojo . Tojo đã cố gắng tự tử nhưng được hồi sức nhờ sự giúp đỡ của các bác sĩ Mỹ.
Ngày 19 tháng 1 năm 1946, MacArthur ra tuyên bố đặc biệt ra lệnh thành lập Tòa án quân sự quốc tế về Viễn Đông (IMTFE). Cùng ngày, ông cũng phê chuẩn Hiến chương của Tòa án quân sự quốc tế vùng Viễn Đông (CIMTFE)[5], trong đó quy định cách thức thành lập tòa án, những tội ác cần xem xét và cách thức hoạt động của tòa án. Hiến chương nhìn chung tuân theo mô hình do của Tòa án Nürnberg đặt ra . Vào ngày 25 tháng 4, theo quy định tại Điều 7 của CIMTFE, Quy tắc tố tụng ban đầu của Tòa án quân sự quốc tế vùng Viễn Đông với những sửa đổi đã được ban hành.
Thẩm phán | Lý lịch | Ý kiến |
---|---|---|
William Webb | Thẩm phán Tòa án Tối cao
Úc Chủ tịch Tòa án |
Chia |
Edward Stuart McDougall | Thẩm phán Tòa án King's Bench của Quebec | |
Mei Ju Ao | Luật sư và thành viên của Viện Lập pháp | |
Henri Bernard | Avocat-General (Luật sư-General) tại
Trưởng công tố Bangui, Tòa án quân sự đầu tiên ở Paris |
Bất đồng |
Radhabinod Pal | Giảng viên, Đại học Luật Calcutta Thẩm
phán Tòa án Tối cao Calcutta |
Bất đồng |
Bert Röling | Giáo sư Luật, Đại học Utrecht | Bất đồng |
Erima Harvey Northcroft | Thẩm phán Tòa án Tối cao New Zealand; cựu Tổng biện hộ Thẩm phán của Quân đội New Zealand | |
Delfin Jaranilla | Tổng chưởng lý
Phó Chánh án Tòa án tối cao Philippines |
Chia |
William Donald Patrick, Lord Patrick | Thẩm phán (người Scotland), Thượng nghị sĩ của trường Cao đẳng Tư pháp | |
John P. Higgins | Chánh án, Tòa Thượng thẩm Massachusetts ; Đã từ chức khỏi tòa án; thay thế bởi Thiếu tướng Myron C. Cramer. | |
Myron C. Cramer | Tổng biện hộ thẩm phán của Quân đội Hoa Kỳ
thay thế Thẩm phán Higgins vào tháng 7 năm 1946 |
|
I. M. Zaryanov | Thành viên Trường Cao đẳng Quân sự của Tòa án Tối cao Liên Xô |
Học giả pháp lý Roscoe Pound rõ ràng cũng đã sẵn sàng thay thế John P. Higgins làm thẩm phán, nhưng việc bổ nhiệm ông đã không thành công.
Công tố viên | Lý lịch |
---|---|
Joseph B. Keenan | Trợ lý Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ
Giám đốc Ban Hình sự của Bộ Tư pháp Hoa Kỳ |
Alan Mansfield | Thẩm phán cấp cao Puisne của Tòa án tối cao Queensland |
Henry Nolan | Phó Thẩm phán Tổng biện hộ của Quân đội Canada |
Hsiang Che-chun | Bộ trưởng Bộ Tư pháp và Ngoại giao |
Robert L. Oneto | Công tố viên Chính phủ lâm thời Cộng hòa Pháp |
P. Govinda Menon | Công tố viên và Thẩm phán, Tòa án Tối cao Ấn Độ |
Frederick Borgerhoff-Mulder | Phó công tố viên Hà Lan |
Ronald Henry Quilliam | Phó Tư lệnh Quân đội New Zealand |
Pedro López | Phó công tố viên Philippines |
Arthur Strettell Comyns Carr | Nghị sĩ và luật sư người Anh |
Sergei Alexandrovich Golunsky | Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Ngoại giao Liên Xô |
28 bị cáo bị buộc tội, chủ yếu là sĩ quan quân đội và quan chức chính phủ.
Phạm nhân | Chức vụ trước khi bị bắt | Chú thích | |
---|---|---|---|
Không kết án | |||
Ōkawa Shūmei | Ông bị cho là tinh thần không ổn định để xét xử và cáo buộc đã được bãi bỏ. | ||
Matsuoka Yōsuke | Bộ trưởng Ngoại giao | Chết trước khi bị truy tố | |
Nagano Osami | Bộ trưởng Hải quân | Chết trước khi bị truy tố | |
Kết án | |||
Tướng | Giám đốc cơ quan tình báo ở Manchukuo (Mãn Châu Quốc) | Bị kết án tử hình bằng hình thức treo cổ vì tội ác chiến tranh, tội ác chống loài người và tội ác chống lại hòa bình (loại A, loại B và loại C):[6] | |
Hirota Kōki | Thủ tướng
(sau là Bộ trưởng Ngoại giao) | ||
Tướng | Bộ trưởng Chiến tranh | ||
Tướng | Chỉ huy Quân đội Khu vực Miến Điện | ||
Trung tướng | Tham mưu trưởng Quân khu 14 | ||
Tướng Tōjō Hideki | Chỉ huy Đạo quân Quan Đông
(sau là Thủ tướng) | ||
Matsui Iwane | Chỉ huy Lực lượng viễn chinh Thượng Hải và Quân khu miền Trung Trung Quốc | Bị kết án tử hình bằng cách treo cổ vì tội ác chiến tranh và tội ác chống lại loài người (Loại B và Loại C):[6] | |
Tướng | Bộ trưởng Chiến tranh | Bị bị kết án tù chung thân. Ba người (Koiso, Shiratori và Umezu) chết trong tù, trong khi mười ba người còn lại được ân xá từ năm 1954 đến năm 1956: | |
Trung tướng | Kẻ chủ mưu chính của Chiến tranh Trung - Nhật lần thứ hai | ||
Thống chế | Bộ trưởng Chiến tranh | ||
Nam tước Hiranuma Kiichirō | Thủ tướng | ||
Hoshino Naoki | Chánh Văn phòng Nội các | ||
Kaya Okinori | Bộ trưởng Tài chính | ||
Hầu tước | Quan chưởng ấn | ||
Tướng | Thống đốc Triều Tiên
(sau là Thủ tướng) | ||
Tướng | Chỉ huy Đạo quân Quan Đông | ||
Đô đốc | Bộ trưởng Hải quân | ||
Trung tướng | Đại sứ Đế quốc Nhật Bản tại Đức | ||
Tướng | Cục trưởng Cục Quân sự | ||
Đô đốc | Bộ trưởng Hải quân | ||
Shiratori Toshio | Đại sứ Đế quốc Nhật Bản tại Ý | ||
Trung tướng Suzuki Teiichi | Chủ tịch Ban Kế hoạch Nội các | ||
Tướng | Bộ trưởng chiến tranh và Tổng tham mưu trưởng lục quân | ||
Tōgō Shigenori | Bộ trưởng Ngoại giao | Bị kết án 20 năm tù, Tōgō chết trong tù năm 1950. | |
Shigemitsu Mamoru | Bộ trưởng Ngoại giao | Bị kết án 7 năm và được ân xá vào năm 1950. Sau đó, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao và Phó Thủ tướng Nhật Bản thời hậu chiến | |
Phán quyết và các bản án của tòa được MacArthur xác nhận vào ngày 24 tháng 11 năm 1948, hai ngày sau cuộc họp chiếu lệ với các thành viên của Ủy ban Kiểm soát Đồng minh tại Nhật Bản, người đóng vai trò là đại diện địa phương của các quốc gia thuộc Ủy ban Viễn Đông. Sáu trong số các đại diện đó không đưa ra khuyến nghị nào về sự khoan hồng. Úc, Canada, Ấn Độ và Hà Lan sẵn sàng thấy vị tướng này thực hiện một số giảm án. Ông ấy đã không làm như vậy. Vấn đề khoan hồng sau đó đã làm xáo trộn mối quan hệ của Nhật Bản với các cường quốc Đồng minh cho đến cuối những năm 1950, khi đa số các cường quốc Đồng minh đồng ý thả những tên tội phạm chiến tranh lớn cuối cùng bị kết án khỏi nơi giam giữ.[7] |