Hoa loa kèn vằn (danh pháp hai phần: Lilium lancifolium) hay quyển đơn[2] là một loài thực vật có hoa trong họ Liliaceae, còn có các tên gọi bắt nguồn từ Trung Quốc như hổ bì bách hợp(tiếng Anh: tiger lily), bách hợp Nghi Hưng, bách hợp Thái Hồ, bách hợp Hồ Châu, bách hợp Long Sơn, đảo thuỳ liên, dược bách hợp, khổ bách hợp, hoàng bách hợp.
Phạm vi bản địa của cây bao phủ vùng liên bang Viễn Đông Nga [7][a] tới Nhật Bản và Tibet,[1] một số tỉnh ở Trung Quốc và bán đảo Triều Tiên.[10][11][12] Cây cũng xuất hiện rải rác khi mọc hoang trong vườn ở Bắc Mỹ, đặc biệt là miền đông Hoa Kỳ và đã xâm nhập tại một số bang miền nam như Georgia.[13][14]
Các nhà thực vật trong nhiều năm coi L. tigrinum (sau Ker Gawler[15]) tên khoa học chính xác cho đến khi xác định rằng tên cũ L. lancifolium (sau Thunberg[16]) đề cập đến cùng một loài, và sau này trở thành tên được chấp nhận.[13][b]
Các tên gọi địa phương
Tên thường gọi của nó là 'tiger lily' . Mặc dù tên này không rõ ràng đối với một số loài, nhưng được áp dụng chính xác cho riêng loài này.[13]
Tên thường gọi trong tiếng Nhật oni-yuri (鬼百合,oni-yuri? lit. "quỷ bách hợp") nay hầu hết được sử dụng cho loài L. lancifolium .[17][18][19] Tên thay thế tengai-yuri (天蓋百合,tengai-yuri? lit. "thiên cái bách hợp"),[18] được ghi chép sớm nhất từ năm 1900, với sự tham khảo từ giống hoa ra hoa kép yae-tengai (八重天蓋,bát trọng thiên cái?),[20][21] đã trở lại nhiều hơn trong các tác phẩm văn học gần đây.[22][23][c]
Một loài cây tên on-yuri được ghi nhận trong văn học những năm 1900 là Kentan (巻丹,Kentan? lit. "quyển đan"),[26][21][25] giống tên gọi trong tiếng Trung Quốc, 卷丹quyển đan.[11][17]
Giống như các loài thuộc họ bách hợp, những bông hoa mọc ra trên những thân cây thẳng đứng cao 80–200 xentimét (31–79 in) và ra lá hình dao lưỡi chích (lanceolate) dài 6–10 xentimét (2,4–3,9 in) và rộng 1–2 xentimét (0,39–0,79 in). Lilium lancifolium sinh ra các chồi con trên không, được gọi là mầm non ở kẻ lá, trong nách lá.[27] Mầm non của kẽ lá không phổ biến ở một số loài Lilium và sinh các cây mới là bản sao của cây ban đầu.[13]
Các bông hoa không có mùi.[27] Mỗi bông hoa kéo nở vài ngày và nếu thụ phấn sẽ tạo ra những quả nang có nhiều hạt mỏng.[13]
Loài cây này mọc hoang và hái lấy củ làm thức ăn cho vật nuôi ở châu Á.[24] Giống cây trồng 'Splendens' đã giành được Giải thưởng Award of Garden Merit của Hiệp hội Làm vườn Hoàng gia.[29]
^Theo Quy tắc danh pháp quốc tế cho tảo, nấm và thực vật, tên cũ được ưu tiên.
^Một cuốn sách bằng tiếng Anh năm 1894 không chọn tengai mà thay vào đó là "ryori-yuri" như một tên gọi khác của L. tigrinum .[24] But ryōri-yuri (料理百合,ryōri-yuri? lit. "liệu lí bách hợp") là tên của yamayuri (L. auratum) theo một cuốn sách tham khảo khác.[25]
^“卷丹Lilium tigrinum”. iPlant.cn 植物智——中国植物物种信息系统. Phòng thí nghiệm hệ thống và thực vật học tiến hóa, Viện thực vật học, Viện khoa học Trung Quốc. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2020.
^Trần Huy (陈辉), Trương Thu Hà (张秋霞) (ngày 28 tháng 8 năm 2019). “【药材辨识】百合,你买对了吗?”. Sohu (bằng tiếng Anh). Yangcheng Evening News. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2020.
^Đã tiết lộ rằng phần củ của giống Kentan này có vị đắng ( Shin shikunshi ),
^ abOhwi, Jisaburo (1965), Meyer, Frederick G.; Walker, Egbert H. (biên tập), Flora of Japan, Washington, D.C.: Smithsonian Institution, tr. 297, Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 3 năm 2020, truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2020Đã định rõ hơn một tham số trong |archivedate= và |archive-date= (trợ giúp)