Incesticide | ||||
---|---|---|---|---|
Album tổng hợp của Nirvana | ||||
Phát hành | 14 tháng 12 năm 1992 | |||
Thu âm | 1988–1991 | |||
Thể loại | ||||
Thời lượng | 44:41 | |||
Hãng đĩa | DGC | |||
Sản xuất | Nhiều nhà sản xuất | |||
Thứ tự album của Nirvana | ||||
|
Incesticide là album tổng hợp của ban nhạc rock người Mỹ Nirvana. Nó bao gồm "Sliver" là đĩa đơn không thuộc album, các mặt B, demo, outtake, bản hát lại và bản thu cho radio.
Album phát hành ngày 14 tháng 12 năm 1992 tại châu Âu, và ngày 15 tháng 12 năm 1992 tại Hoa Kỳ. Về sau, nó vươn lên vị trí thứ 39 trên Billboard 200.
Đầu năm 1992, Jonathan Poneman chủ hãng Sub Pop liên lạc với Gary Gersh – người ký hợp đồng với Nirvana cho hãng DGC Records – để thông báo Sub Pop vẫn còn một số ca khúc thời đầu chưa được phát hành của Nirvana.[1] Mới đầu, ban nhạc định ra mắt các ca khúc này qua Sub Pop và châm biếm đặt tên là Cash Cow.[ghi chú 1] Tuy nhiên, Sub Pop không thể sánh được với mạng lưới phân phối của Geffen, trong khi ban nhạc cảm thấy việc thu hút tối đa sự chú ý của công chúng là rất quan trọng.[2] Sub Pop bán các bản thu âm này cho Geffen "với giá sáu con số," với điều kiện ban nhạc phải làm và chấp nhận phát hành một album trước Giáng Sinh năm 1992.[1]
Lúc bấy giờ, phần lớn các ca khúc trong Incesticide đang được lan truyền trong cộng đồng người hâm mộ, nhưng với chất lượng thấp. Báo chí âm nhạc loan tin Nirvana muốn đem đến cho người hâm mộ một bản thu chất lượng cao hơn. Trong cuốn sách Cobain Unseen, Charles R. Cross viết Kurt Cobain đồng ý ra mắt album tổng hợp này vì anh được toàn quyền quyết định hình minh họa album.
Vì các ca khúc được thu ở nhiều buổi thu âm khác nhau, một số còn được thu khi đội hình Nirvana chưa ổn định, nên album có sự tham gia của bốn tay trống: Chad Channing, Dan Peters, Dale Crover và Dave Grohl.
Tranh bìa trước album là do Cobain vẽ[3] (dưới tên "Kurdt Kobain," ghi chú mặt trong bìa album).[4] Con vịt cao su trên bìa sau cũng là của Cobain. Một đóa hoa anh túc được vẽ nổi bật trên bìa trước, ám chỉ tình trạng nghiện heroin của Cobain.
Những ấn bản đầu tiên của album có kèm ghi chú do Cobain viết, bao gồm lời chỉ trích những người kỳ thị đồng tính, phân biệt chủng tộc và kỳ thị nữ giới.[5]
Nếu bất kỳ ai trong số các bạn, bằng cách này hay cách khác, kỳ thị người đồng tính, người da màu hoặc phụ nữ thì vui lòng giúp chúng tôi một việc – hãy để chúng tôi yên! Đừng tới chương trình biểu diễn và đừng mua đĩa của chúng tôi nữa.
Ấn bản có ghi chú của Cobain được bày bán tại các cửa hàng băng đĩa tới năm 1998. Những phiên bản đầu tiên tại Hoa Kỳ và Canada cũng dãn nhán Parental Advisory.[6]
Đánh giá chuyên môn | |
---|---|
Nguồn đánh giá | |
Nguồn | Đánh giá |
AllMusic | [7] |
Blender | [8] |
The Encyclopedia of Popular Music | [9] |
Entertainment Weekly | B[10] |
NME | 7/10 / 3/10[11] |
Rolling Stone | [13] |
The Rolling Stone Album Guide | [14] |
Select | [15] |
The Village Voice | A−[12] |
Nhìn chung, album nhận được đánh giá tích cực. Trong một bài đánh giá của AllMusic, nhà phê bình âm nhạc Stephen Thomas Erlewine nói "'Aneurysm' có lẽ là ca khúc xuất sắc nhất [Nirvana] từng thu âm."[16] Grant Alden của Rolling Stone tin rằng "sự hỗn loạn của Incesticide cho thấy nỗ lực muốn giải tỏa gánh nặng của danh tiếng," và album "nhắc người hâm mộ nhớ Nirvana là một ban nhạc vĩ đại trước khi Nevermind dẫn đầu bảng xếp hạng."[13] David Browne thuộc tạp chí Entertainment Weekly cho rằng "Dive" là "hiện thân của mọi điều tuyệt vời về Nirvana," kết hợp riff, tiếng bass và giọng hát của Cobain thành "một thứ giúp giải phóng cảm xúc đầy xúc động. Với một sản phẩm làm không tốn nhiều sức, Incesticide có rất nhiều khoảnh khắc như vậy."[10] Angela Lewis của tạp chí NME cho rằng Incesticide có chất lượng không đồng đều, nhưng vẫn là một album thành công nhờ hai yếu tố chính: nó không được phát hành với mục đích "hám lợi," và mặt A "mang âm thanh của một album chưa từng ra đời."[11]
Incesticide phát hành ngày 14 tháng 12 năm 1992 tại Anh Quốc và ngày 15 tháng 12 năm 1992 tại Hoa Kỳ.[17] Hãng đĩa Geffen Records quyết định không quảng bá rộng rãi album này để tránh làm "Nirvana kiệt sức," vì ban nhạc mới ra mắt Nevermind và bốn đĩa đơn trong 15 tháng qua.[18] Tuy ít được quảng cáo và chỉ tổng hợp các ca khúc cả mới lẫn cũ, Incesticide vẫn xuất hiện ở vị trí thứ 51 trên Billboard 200 và bán được 500.000 bản trong hai tháng.[19] Album đã được Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ trao chứng nhận Bạch kim. Vào ngày 23 tháng 11 năm 2012, nhân kỷ niệm 20 năm, Incesticide được tái phát hành dưới dạng đĩa than 45 vòng phiên bản LP kép giới hạn.[20]
Tất cả các ca khúc được viết bởi Kurt Cobain, trừ khi có ghi chú.
STT | Nhan đề | Sáng tác | Đĩa gốc | Thời lượng |
---|---|---|---|---|
1. | "Dive" | Cobain, Krist Novoselic | Đĩa đơn "Sliver" và The Grunge Years | 3:55 |
2. | "Sliver" | Đĩa đơn "Sliver" | 2:16 | |
3. | "Stain" | EP Blew | 2:40 | |
4. | "Been a Son" | Trước đó chưa phát hành | 1:55 | |
5. | "Turnaround" | Mark Mothersbaugh, Gerald Casale | EP Hormoaning | 2:19 |
6. | "Molly's Lips" | Eugene Kelly, Frances McKee | EP Hormoaning | 1:54 |
7. | "Son of a Gun" | Eugene Kelly, Frances McKee | EP Hormoaning | 2:48 |
8. | "(New Wave) Polly" | Cobain, Novoselic, Dave Grohl | Trước đó chưa phát hành | 1:48 |
9. | "Beeswax" | Kill Rock Stars | 2:50 | |
10. | "Downer" | Phiên bản CD năm 1990 của Bleach | 1:43 | |
11. | "Mexican Seafood" | Teriyaki Asthma Volume 1 | 1:55 | |
12. | "Hairspray Queen" | Cobain, Novoselic | Trước đó chưa phát hành | 4:13 |
13. | "Aero Zeppelin" | Trước đó chưa phát hành | 4:41 | |
14. | "Big Long Now" | Trước đó chưa phát hành | 5:03 | |
15. | "Aneurysm" | Cobain, Novoselic, Grohl | Trước đó chưa phát hành | 4:35 |
Tất cả các buổi thu âm:
Seattle, WA: Reciprocal Recording Studios (23 tháng 1 năm 1988)
Băng demo phòng thu đầu tiên của Nirvana.
Ca khúc: "Beeswax", "Downer", "Mexican Seafood", "Hairspray Queen" và "Aero Zeppelin"
Seattle, WA: Reciprocal Recording Studios (tháng 12 năm 1988 – tháng 1 năm 1989)
Các buổi thu âm cho Bleach.
Ca khúc: "Big Long Now"
Seattle, WA: Music Source Studios (tháng 9 năm 1989)
Các buổi thu âm cho EP Blew.
Ca khúc: "Stain"
Madison, WI: Smart Studios (2 tháng 4 năm 1990 – 6 tháng 4 năm 1990)
Các buổi thu âm cho album dự kiến thứ hai của Sub Pop.
Ca khúc: "Dive"
Seattle, WA: Reciprocal Recording Studios (11 tháng 7 năm 1990)
Buổi thu âm cho đĩa đơn "Sliver" của Sub Pop.
Ca khúc: "Sliver"
Luân Đôn, Anh Quốc: Maida Vale Studio 3 (21 tháng 10 năm 1990)
Buổi thu âm tại BBC cho John Peel vào năm 1990.
Ca khúc: "Turnaround", "Molly's Lips" và "Son of a Gun"
Luân Đôn, Anh Quốc: Maida Vale Studio 4 (9 tháng 11 năm 1991)
Buổi thu âm tại BBC cho Mark Goodier vào năm 1991.
Ca khúc: "Been a Son", "(New Wave) Polly" và "Aneurysm"
Album[sửa | sửa mã nguồn]
|
Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]
|