James McAvoy

James McAvoy
James McAvoy tại San Diego Comic-Con 2019
SinhJames Andrew McAvoy
21 tháng 4, 1979 (45 tuổi)
Glasgow, Scotland
Quốc tịchScotland
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động1995 - nay
Phối ngẫu
Anne-Marie Duff (cưới 2006–2016)
Lisa Liberati (cưới 2022)
Con cái2

James McAvoy (phát âm: [ˈmækəvɔɪ], sinh ngày 21 tháng 4 năm 1979)[1] là một diễn viên điện ảnh sân khấu người Scotland. Anh khởi nghiệp từ lúc còn là thiếu niên trong bộ phim The Near Room (1995). Anh nổi tiếng nhờ những vai chính trong các phim X-Men First Class, X-Men: Days of Future Past, Atonement, The Last King of Scotland, Wanted, Frank Herbert's Children of Dune và series truyền hình trên truyền hình Anh quốc Shameless. Anh còn tham gia lồng tiếng cho 2 bộ phim hoạt hình Gnomeo & JulietArthur Christmas. McAvoy đã đoạt giải BAFTA Rising Star Award và một giải BAFTA Scotland, một giải British Independent Film Awards cho nam diễn viên xuất sắc nhất. Anh cũng được đề cử giải ALFS Award, hai lần đề cử BAFTA Awards, một lần cho giải European Film Award, và một Giải thưởng Quả cầu vàng (Golden Globe award).

Thời thơ ấu

[sửa | sửa mã nguồn]

James McAvoy sinh ở Port Glasgow, Scotland, mẹ là Elizabeth, một nữ y tá chăm sóc bệnh nhân tâm thần, cha là James McAvoy, làm thợ nề.[2][3] Cha và mẹ của McAvoy ly dị khi anh mới 7 tuổi. Anh sống với ông bà ngoại, bà Mary và ông James Johnstone và em gái Joy McAvoy (nay là một ca sĩ) ở Drumchapel; một vùng của Glasgow.[3] Anh ít khi gặp mẹ, còn cha thì càng ít gặp hơn.[4]. Em trai cùng cha khác mẹ của James đang thụ án tù vì tội giết người. Có lẽ chính vì vậy, ngay đêm nhận giải BAFTA, những người đầu tiên anh nhớ tới là gia đình: James đã không ngớt lời cảm ơn mẹ, ông bà và vợ anh. Ngoài ra, anh không có một lời nào nhắc tới cha cũng như em trai [5].

McAvoy tốt nghiệp Trường trung học St. Thomas Aquinas ở Jordanhill, Glasgow, một trường dòng của đạo Thiên chúa giáo, và đã dự định sẽ trở thành cha xứ. Trong khi đi học, anh đã phải đi làm thêm ở một lò bánh[6][7]. Nhưng cuối cùng anh tốt nghiệp Viện Âm nhạc và Kịch Hoàng gia Scotland (Royal Scottish Academy of Music and Drama) vào năm 2000.

Sự nghiệp

[sửa | sửa mã nguồn]

Vai diễn đầu tiên của McAvoy là trong vở The Near Room năm 1995, anh thú nhận rằng anh không mấy hứng thú với việc diễn xuất vào thời gian đó nhưng lại được người diễn viên mà mình yêu thích, Alana Brady truyền cảm hứng. Tiếp đến là vai Anthony Balfour trong phim Regeneration của Pat Barker vào năm 1997. Anh tiếp tục đóng phim khi còn là thành viên của Rạp hát PACE Youth và sau đó McAvoy tốt nghiệp trường Học viện Âm nhạc và Nghệ thuật Hoàng gia Scotland vào năm 2000. Năm 2000, McAvoy xuất hiện trong nhiều bộ phim cũng như các chương trình TV. Vào 2001, anh xuất hiện trong vở kịch Out in the Open. Anh hóa thân vào vai một gã vận chuyển ma túy đồng tính đã khiến cho nhà làm phim Joe Wright ấn tượng và mời anh về đóng phim, nhưng anh đã không chấp nhận.[14]

Anh cũng góp mặt trong Privates on Parade ở Donmar Warehouse, lần nay anh đã gây chú ý với nhân vật Sam Mendes. Cũng vào năm 2001, vai diễn có tính đột phá và ghi dấu được dấu ấn của anh là vai diễn trong loạt phim Band of Brothers do Steven SpielbergTom Hanks đồng sản xuất.  Được phát sóng trên HBO. Anh tiếp tục gặt hái thành công vào năm 2002 trong White Teeth.

Vai diễn quốc tế đầu tiên của anh là Leto Atreides II vào năm 2003 Sci Fi Channel miniseries Frank Herbert's Children of Dune (chuyển thể từ tiểu thuyết của Frank Herbert). Trong năm đó, McAvoy còn xuất hiện trong series truyền hình của BBC tên Early Doors và series phim kinh dị State of Play kể về vụ điều tra của một tờ báo về cái chết của một phụ nữ trẻ và được phát sóng trên BBC One. Năm 2004 anh bắt đầu vai Steve McBride trong series Shameless trên kênh Channel 4, và với vai này anh được đề cử giải British Comedy Award cho Best TV Newcomer. Anh cũng xuất hiện trong hai tác phẩm: Wimbledon vai người em khó chịu của Paul Bettany là Carl Colt, cùng với Kristen Dunst đảm nhiệm vai chính. Năm 2005 anh bắt đầu vai trò trong cùng lúc ba xuất phẩm, trong đó có một bộ phim từng trình chiếu ở Việt Nam là Biên niên sử Narnia.

Năm 2006 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp của McAvoy khi anh cùng Forest Whitaker nhập vai chính (Bác sĩ Garrigan) trong phim Vị vua cuối cùng của Scotland. Phim này phỏng theo cuốn tiểu thuyết của Giles Foden cũng có cùng tên viết về cuộc đời của nhà độc tài Uganda tên Idi Amin những năm 1970. Tính cách nhân vật Garrigan được hình thành bởi sự hòa trộn các tính cách một số người thân cận với Amin, trong đó chủ yếu là một nhân vật người Anh có tên Bob Astles, cố vấn hàng đầu của Amin trong thời ông này trị vì và dân Uganda gán cho biệt danh Chuột bạch ("The White Rat").[8]

Cùng năm đó, McAvoy đảm nhận vai chính trong Starter for 10. Phim được phỏng theo tiểu thuyết Starter for Ten của David Nicholls. McAvoy giành được giải Mary Selway/Orange Rising Star Award tại BAFTA Awards 2006 cho vai diễn này. Anh cũng hoàn thành vai diễn trong Penelope năm 2006 này, dù phim gặp trục trặc trong phát hành nên đến tận cuối 2008 mới phát hành được.[9]

Đến 2007 McAvoy xuất hiện cùng lúc trong hai bộ phim được giới phê bình hoan nghênh nhiệt liệt là: Becoming Jane, một phim tình cảm lãng mạn có cốt truyện xuất phát từ cuộc đời thực của Jane Austen, và phim Atonement, với kịch bản phỏng theo cuốn tiểu thuyết cùng tên đã đoạt giải của Ian McEwan năm 2001. McAvoy được đề cử một giải Quả cầu vàng cho vai diễn trong Atonement. Cùng lúc anh tham gia đóng góp cho việc làm phim Three Way Split của hai đạo diễn Neil Hunter và Tom Hunsinger,[10] những không tham gia trực tiếp vào phim.

Với bộ phim bom tấn mới mà McAvoy tham gia: Wanted, được phát hành vào 25 tháng 6 năm 2008.[11] Phim này dựa vào loạt truyện tranh (comic book) cùng tên. McAvoy diễn vai Wesley Gibson, một anh chàng 25 tuổi, vốn làm nghề kế toán, suốt ngày bù đầu bởi các bảng tính và báo cáo cho đến khi phát hiện ra thân phận của mình vốn là con của một siêu sát thủ. Sau đó, anh chàng kế toán viên được đào luyện để thành một siêu sát thủ bởi một người bạn của người cha đã quá cố là Sloan (do Morgan Freeman thủ vai), và một siêu sát thủ khác tên Fox, do Angelina Jolie thủ vai. McAvoy đã thông báo về việc tham gia phim The Last Station, một phim màn ảnh rộng sẽ phát hành vào mùa Xuân 2009.[12] Phim này dựa trên cuốn tiểu thuyết in năm 1990 của Jay Parini viết về những năm cuối đời của đại văn hào Nga Leo Tolstoy cùng bạn diễn là vợ của McAvoy, diễn viên Anne-Marie Duff. Cũng trong 2009, anh sẽ trở lại với vở kịch được dàn dựng lại có tên Three Days of Rain ở Nhà hát Apollo, London.

James McAvoy và vợ, nữ diễn viên Anne-Marie Duff tại Orange British Academy of Film Awards ở Nhà hát Opera Hoàng gia London (London's Royal Opera House) tháng Giêng 2007

Anh cũng đã nhận vai Bilbo Baggins, trong phim The Lord Of The Rings mới, có phụ đề The Hobbit [13][14]. Anh cũng có thể đảm nhận vai Kurt Cobain trong phim Heavier Than Heaven.

McAvoy là một thành viên nhiệt thành của Hội Chữ thập Đỏ Anh British Red Cross[15].

Đời tư

[sửa | sửa mã nguồn]
James McAvoy năm 2014.

McAvoy đã từng có quan hệ yêu đương với nữ diễn viên Scotland Emma Nielsen (nghệ danh Emma King[16]). Họ bắt đầu hò hẹn khi McAvoy 16 tuổi nhưng chia tay vào năm 2003.[17][18] Sau đó anh cưới nữ diễn viên Anne-Marie Duff năm 2006. Họ sống ở London. McAvoy thích các tiểu thuyết khoa học giả tưởng và là một fan hâm mộ của Câu lạc bộ bóng đá Celtic.[19].

Mặc dù là một ngôi sao đang lên rất nhanh, song McAvoy lại sống thiên về tinh thần, tình cảm, không lấy vật chất và phô trương làm trọng. Sau thành công của một loạt phim, cho đến sau khi chiếu Wanted, anh vẫn đi một chiếc xe Nissan Micra có trị giá 2.000 USD trên thị trường hiện nay. Hai vợ chồng James sống trong một căn hộ nhỏ xíu trên tầng hai tại khu Stroud Green, nằm cách xa những khu dân cư sang trọng phía Bắc thành phố London. Chiếc xe này đã 10 năm tuổi chỉ có giá 2.000 USD trên thị trường. Anne-Marie Duff, vợ và hơn McAvoy 9 tuổi, mua căn hộ này với giá 340.000 USD vào năm 2006, trước khi hai người kết hôn. McAvoy tâm sự: "Tôi vẫn là tôi như trước khi nổi tiếng, làm mọi việc mà mọi người không để ý. Tôi thích có một bữa ăn yên tĩnh và thoải mái với bạn bè hơn là vụng về tham gia một đại tiệc nơi mọi người đều biết rõ về bạn"[20].

Khác với đại đa số các ngôi sao khác, McAvoy thích gia đình và thích cả làm những việc vặt trong gia đình như rửa bát, nấu nướng. Anh nói: "Mỗi khi ở nhà và không phải làm việc, tôi thường tự nấu ăn. Tôi có cảm giác như mình bị tách ra khỏi thế giới loài người nếu như tôi không tự mình nấu nướng."[21]

Món sở trường của McAvoy là hành nấu cari. Đồ ăn Ấn Độ là sở thích của anh. Và anh cũng thích thử nấu các món Mexico nhưng không được như ý cho lắm. Không đến mức khó nuốt nhưng nó không ra được hương vị đích thực của Mexico.

McAvoy nói sẽ không bao giờ sống ở Mỹ. Cả sáu phim trước của anh đều được quay tại châu Âu và 4 trong số đó là ở ngay nước Anh. Anh từng nghĩ: "không hẳn bạn cứ phải chuyển tới Mỹ mới có cảm giác được sống trong thế giới điện ảnh[21]. Thứ đắt nhất mà anh đang sở hữu và anh nhắc đến chỉ là chiếc xe scooter (xe gắn máy) của mình. Nhưng nó bị hỏng nhiều quá và anh tiếc là đã phải bán nó. Anh hy vọng sẽ sớm có được một chiếc Vespa khác dù anh đang có nhiều triệu đôla.

Địa điểm du lịch yêu thích của anh là châu Phi bởi lẽ anh đã không có nhiều thời gian dành cho vùng đất này khi tới đây. Anh tâm sự: "Đó là một châu lục thật đáng kinh ngạc. Tôi thích được ngắm nhìn những chú gorillaRwanda hay Uganda. New Zealand cũng là một trong những địa điểm yêu thích của tôi."[21]

Anh luôn cảm thấy lúng túng, khó khăn khi đóng các cảnh quá nóng bỏng với các nữ diễn viên khác. Anh bày tỏ: "Những cảnh sex luôn là ác mộng của tôi. Chưa bao giờ tôi cảm thấy dễ dàng. Lúc nào cũng như đang phải vật lộn với một biển mồ hôi và sự khó chịu. Khi người ta nói "Action!", kịch bản bảo bạn phải cảm nhận thấy khuôn ngực của một quý cô thì bạn sẽ phải thấy rõ bộ ngực đó, hơi thở đó. Bạn hoàn toàn không có lựa chọn nào khác! Với diễn viên nữ cùng diễn khác, anh cũng luôn xấu hổ như vậy[22].

Từ thiện

[sửa | sửa mã nguồn]

Tại một thời điểm, McAvoy đã làm một cú nhảy "đáng sợ" từ tòa nhà bệnh viện cao nhất thế giới để giúp gây quỹ cho tổ chức từ thiện Retrak cho trẻ em ở Uganda, giúp trẻ em vô gia cư. Ngoài ra, McAvoy làmột người ủng hộ nổi tiếng của Hội Chữ thập đỏ Anh và anh đã đi đến Uganda để nhận thêm nhiều sự giúp đỡ. Anh đã tham gia vào các tổ chức từ thiện sau khi quay The Last King of Scotland trong vài tháng và đã bị sốc bởi những gì mìnhđã thấy. Vào tháng 2 năm 2007, anhđã đến thăm miền bắc Uganda và đã dành bốn ngày để xem các dự án được hỗ trợ bởi Hội Chữ thập đỏ Anh.

Vai diễn

[sửa | sửa mã nguồn]

Danh sách phim

[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tác phẩm Vai diễn Chú thích
1995 Near Room, TheThe Near Room Kevin Savage
1997 Angel Passes By, AnAn Angel Passes By Cậu bé địa phương Phim ngắn
1997 Regeneration Anthony Balfour Tên khác Behind the Lines
2001 Swimming Pool Mike Tên khác The Pool
2003 Bright Young Things Bá tước Balcairn
2003 Bollywood Queen Jay
2004 Wimbledon Carl Colt
2004 Strings Hal Tara Lồng tiếng
2004 Inside I'm Dancing Rory O'Shea Tên khác Rory O'Shea Was Here
Đề cử - Diễn viên xuất sắc nhất - London Film Award
2005 Chronicles of Narnia: The Lion, the Witch and the Wardrobe, TheThe Chronicles of Narnia: The Lion, the Witch and the Wardrobe Mr. Tumnus Đề cử - London Film Award cho Diễn viên phụ của năm
2006 Last King of Scotland, TheThe Last King of Scotland Bác sĩ Nicholas Garrigan BAFTA Scotland Award cho Diễn viên xuất sắc nhất
Rising Star Award, BAFTA
Đề cử—BAFTA Award cho diễn viên phụ xuất sắc nhất
Đề cử—British Independent Film Award cho Diễn viên xuất sắc nhất
Đề cử - European Film Award cho diễn viên xuất sắc nhất
Đề cử - London Film Award cho Diễn viên xuất sắc nhất
2006 Starter for 10 Brian Jackson
2007 Becoming Jane Thomas Lefroy
2007 Penelope Johnny Martin / Max Campion
2007 Chuộc lỗi (phim) Robbie Turner Empire Award cho Diễn viên xuất sắc nhất
London Film Award cho diễn viên của năm
Đề cử - BAFTA Award cho Diễn viên chính xuất sắc nhất
Đề cử - European Film Award cho diễn viên xuất sắc nhất
Đề cử - Golden Globe Award cho Diễn viên xuất sắc nhất – Motion Picture Drama
Đề cử - Irish Film Award Cho Diễn viên Quốc tế xuất sắc nhất
2008 Wanted Wesley A. Gibson Đề cử - MTV Movie Award cho nụ hôn đẹp nhất
2009 Last Station, TheThe Last Station Valentin Bulgakov Đề cử - Satellite Award cho Diễn viên phụ xuất sắc nhất - Motion Picture
2011 Gnomeo and Juliet Gnomeo Lồng tiếng
2011 Conspirator, TheThe Conspirator Frederick Aiken
2011 X-Men: First Class Professor Charles Xavier IGN Award Diễn viên xuất sắc nhất[23]
Đề cử - Scream Award cho Diễn viên xuất sắc nhất
Đề cử - Scream Award cho Siêu Anh Hùng xuất sắc nhất
Đề cử - Scream Award cho Diễn viên xuất sắc nhất
Đề cử - People Choice Award cho Siêu Anh Hùng được yêu thích nhất
Đề cử - People's Choice Award cho diễn viên xuất sắc nhất
2011 Arthur Christmas Arthur Lồng tiếng
2013 Welcome to the Punch Max Lewinsky London Film Award cho diễn viên của năm
2013 Trance Simon Newton London Film Award cho diễn viên của năm
2013 Filth Bruce Robertson British Independent Film Award cho Diễn viên xuất sắc nhất
London Film Award cho Diễn viên của năm
Empire Award cho diễn viên xuất sắc nhất
2014 Muppets Most Wanted Delivery Man Khách mời
2014 X-Men: Days of Future Past Giáo sư Charles Xavier Đồng vai diễn với Patrick Stewart
2014 The Disappearance of Eleanor Rigby Conor Ludlow Hoàn thành, chưa phát hành
2015 Frankenstein Victor Frankenstein Đang quay
2016 X-Men: Cuộc chiến chống Apocalypse Charles Xavier / Giáo sư X
Split Kevin Wendell Crumb /

The Horde /

The Beast

2017 Atomic Blonde David Percival
Submergence James Moore
2018 Sherlock Gnomes Gnomeo

(voice)

Deadpool 2 Charles Xavier / Professor X Uncredited cameo
2019 Glass Kevin Wendell Crumb /

The Horde / The Beast

X-Men: Phượng hoàng bóng tối Charles Xavier / Professor X
Gã hề ma quái 2 Bill Denbrough Post-production; Shared role with Jaeden Lieberher
2024 Không nói điều dữ Paddy

Truyền hình

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tác phẩm Vai diễn Chú thích
1997 Bill, TheThe Bill Gavin Donald Chương trình truyền hình
Tập: "Rent"
2001 Band of Brothers Pvt. James W. Miller Miniseries
Tập: "Replacements"
2001 Lorna Doone Sergeant Bloxham Phim truyền hình
2001 Murder in Mind Martin Vosper Chương trình truyền hình
Tập: "Teacher"
2002 White Teeth Josh Malfen Chương trình truyền hình
2 tập
2002 Inspector Lynley Mysteries, TheThe Inspector Lynley Mysteries Gowan Ross Chương trình truyền hình
Tập: "Payment in Blood"
2002 Foyle's War Ray Pritchard Chương trình truyền hình
Tập: "The German Woman"
2003 Frank Herbert's Children of Dune Leto Atreides II Chương trình truyền hình
3 tập
2003 State of Play Dan Foster Chương trình truyền hình
6 tập
2003 Early Doors Liam Chương trình truyền hình
4 tập
2004 - 2005 Shameless Steve McBride Chương trình truyền hình
13 tập
Đề cử - British Comedy Award cho Bộ phim hài mới
2005 ShakespeaRe-Told Joe Macbeth Chương trình truyền hình
Tập: "Macbeth"
2009 Angelina Ballerina: The Next Steps Maurice Mouseling Lồng tiếng
Phim hoạt hình
2018 Watership Down Hazel

(voice)

4 tập
2019 Saturday Night Live Himself / Host Episode: "James McAvoy/Meek Mill"
His Dark Materials Lord Asriel

Sân khấu

[sửa | sửa mã nguồn]
Năm Tác phẩm Vai diễn Chú thích
The Tempest Ferdinand Brunton Theatre
1999 West Side Story Riff Courtyard Centre for the Arts Hereford
1999 Romeo and Juliet Romeo Courtyard Centre for the Arts Hereford
Beauty and the Beast Bobby Buckfast Adam Smith Theatre
2000 The Reel of the Hanged Man Gerald Traverse Theatre
Lovers Joe Royal Lyceum Theatre
2001 Out In The Open Iggy Hampstead Theatre
2001 Privates on Parade Private Steven Flowers Donmar Warehouse
2005 Breathing Corpses Ben Royal Court Theatre
2009 Three Days of Rain Walker & Ned Apollo Theatre
2013 Macbeth Macbeth Trafalgar Studios
2015 The Ruling Class Jack Gurney Trafalgar Studios
2019 Cyrano de Bergerac Cyrano Playhouse Theatre
Năm Tác phẩm Vai diễn Ghi chú
2013 Neverwhere Richard Mayhew BBC Radio 4
2015 Heart of Darkness Charles Marlow BBC Radio 4
2020 The Sandman Dream (Morpheus, Lord of Dreams, Sandman) Audible

Chú thích

[sửa | sửa mã nguồn]
  1. ^ “News”. JamesMcAvoy.com. Truy cập ngày 18 tháng 4 năm 2007.
  2. ^ 'I like knowing I'm about to do something bad':: James McAvoy:: Welcome to James McAvoy Online !”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2008.
  3. ^ a b “James McAvoy Biography”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2008.
  4. ^ .."The Real McAvoy", The Observer, October, 2006. Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2008.
  5. ^ James McAvoy xa lánh thị phi
  6. ^ “A young actor creating a buzz”. Telegraph.co.uk. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2007.
  7. ^ “Trying to be good”. The Guardian. ngày 26 tháng 11 năm 2005. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  8. ^ "Uganda's White Rat" Lưu trữ 2008-04-30 tại Wayback Machine. Daily News (South Africa). Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2008.
  9. ^ Penelope staring Reese Witherspoon and Christina Ricci, release dates on IMDB.com, Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2008.
  10. ^ Curtis, Nick (ngày 26 tháng 7 năm 2007). “A London love story”. This is London. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 9 năm 2008. Truy cập ngày 5 tháng 9 năm 2007. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  11. ^ Wanted release dates on IMDB.com, Truy cập ngày 16 tháng 3 năm 2008.
  12. ^ The Last Station press release[liên kết hỏng], Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2008.
  13. ^ “James McAvoy to Play Bilbo Baggins”. A Socialite's Life. ngày 29 tháng 5 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2008.
  14. ^ “McAvoy denies Hobbit rumours”. "Sci Fi Wire". ngày 18 tháng 6 năm 2008. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2008.
  15. ^ “Profile on the Red Cross site”. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2008.
  16. ^ “James McAvoy Biography”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2008.
  17. ^ “GLASGOW HERALD INTERVIEW - tháng 8 năm 2003:: James McAvoy:: Welcome to James McAvoy Online !”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2008.
  18. ^ "James McAvoy Biography" Lưu trữ 2008-12-22 tại Wayback Machine. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2008.
  19. ^ "Discover more about the stars of BBC Drama: James McAvoy" Lưu trữ 2012-06-29 tại Archive.today. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2008.
  20. ^ “James McAvoy - 'Sao' bình dị”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2008.
  21. ^ a b c “James McAvoy: Gương mặt mới của Hollywood!”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2008.
  22. ^ “Minh tinh 'Atonement' xấu hổ khi quay cảnh nóng”. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2008.
  23. ^ “2011 IGN Award for Best Ensemble Cast”. IGN. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2011.

Liên kết ngoài

[sửa | sửa mã nguồn]
Chúng tôi bán
Bài viết liên quan
Nhân vật Kugisaki Nobara - Jujutsu Kaisen
Nhân vật Kugisaki Nobara - Jujutsu Kaisen
Kugisaki Nobara (釘くぎ崎さき野の薔ば薇ら Kugisaki Nobara?, Đanh Kì Dã Tường Vi) là nhân vật chính thứ ba (từ gốc: tritagonist) của bộ truyện Jujutsu Kaisen
Giả thuyết: Câu chuyện của Pierro - Quan chấp hành đầu tiên của Fatui
Giả thuyết: Câu chuyện của Pierro - Quan chấp hành đầu tiên của Fatui
Nếu nhìn vào ngoại hình của Pierro, ta có thể thấy được rằng ông đeo trên mình chiếc mặt nạ có hình dạng giống với Mặt nạ sắt nhuốm máu
[Review sách] Thế giới rộng lớn, lòng người chật hẹp - Cuốn tản văn xoa dịu tâm hồn
[Review sách] Thế giới rộng lớn, lòng người chật hẹp - Cuốn tản văn xoa dịu tâm hồn
Cho dẫu trái tim nhỏ bé, khoảng trống chẳng còn lại bao nhiêu, vẫn mong bạn sẽ luôn dành một chỗ cho chính mình, để có thể xoa dịu bản thân
Một số thông tin về Đại quỷ tộc [Ogre] trong Tensura
Một số thông tin về Đại quỷ tộc [Ogre] trong Tensura
Trái ngược với Tử quỷ tộc [Goblin] (Quỷ nhỏ), đây là chủng tộc mạnh mẽ nhất trong Đại sâm lâm Jura