Gioan Baotixita Urrutia Thi | ||
In pace et caritate Christi (Trong bình an và tình yêu Chúa Kitô) | ||
Giáo phận | Giáo phận Huế | |
---|---|---|
Tòa giám mục | Huế | |
Tấn phong | 27 tháng 05, 1948 | |
Hưu | 24 tháng 11 năm 1960 | |
Tiền nhiệm | François Arsène Jean Marie Eugène Lemasle Lễ (GM Tông Toà GP. Huế) | |
Kế vị | Phêrô Martinô Ngô Đình Thục (TGM TGP. Huế) | |
Thụ phong | 1925 | |
Ngày sinh | 06 tháng 11 năm 1901 | |
Ngày mất | 5 tháng 11, 1979 | (77 tuổi)|
Quốc tịch | Pháp | |
Giáo hội | Công giáo Rôma | |
Quê quán | Bayonne, Pháp. |
Gioan Baotixita (Jean-Baptiste) Urrutia Thi (6 tháng 11 năm 1901 - 5 tháng 1 năm 1979) là một giám mục truyền giáo người Pháp, phục vụ tại Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Giám mục Tông toà Hạt Đại diện Tông Tòa Huế từ năm 1944 đến năm 1960. Năm 1960, cùng với sự thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam, ông kết thúc nhiệm vụ truyền giáo và trở về Pháp và qua đời tại đó vào năm 1979.
Jean-Baptiste Urrutia sinh ngày 6 tháng 11 năm 1901 tại Aldudes - địa phận Bayonne.[1]
Năm 1911, ông vào đại học Hasparren. Vào mùa hè năm 1911, các chủng sinh bị trục xuất khỏi trường đại học và các công việc đã được nối lại bởi các linh mục của giáo phận đầu tháng 10 năm 1911.[2]
Trong tháng 10 năm 1913, ông chuyển đến Belloc đại học để tiếp tục nghiên cứu của mình cho đến tháng 6 năm 1919, dưới sự lãnh đạo của ông Abadie và Canton.[2]
Năm 1921 thầy Urrutia nhập Chủng viện Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris và được thụ phong linh mục tại đó năm 1925. Tháng 9 năm này, ông được chỉ định phục vụ tại giáo phận Huế. Đầu tiên, ông học tiếng Việt và làm giáo sư Tiểu chủng viện An Ninh, rồi sau đó làm Bề trên trong vòng 15 năm, từ 1930 đến 1945. Trong số học trò của ông, có chủng sinh Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.[1]
Tháng 5 năm 1937, Giám mục Lemasle cử ông làm Linh mục Chính và vẫn tiếp tục điều hành Tiểu chủng viện.[1]
Tháng 4 năm 1945, sau cuộc đảo chính, quân Nhật bắt các thừa sai Pháp, linh mục Urrutia bị giam lỏng ở Nhà Chung Huế cùng với các tu sĩ khác.[2]
Ngày 26 tháng 9 năm 1946, giám mục Lemasle qua đời tại Sài Gòn. Linh mục Urrutia điều hành giáo phận.[2]
Ngày 18 tháng 2 năm 1948, Linh mục Urrutia được bồ nhiệm làm Giám mục Đại diện Tông toà Giáo phận Huế sau 17 tháng trống toà với hiệu toà Isauropolis và được Khâm Sứ Toà Thánh Drapier tấn phong ngày 27 tháng 5 cùng năm. Từ khi nhận chức Giám mục Tông Toà, hàng năm ông viết và gửi báo cáo về giáo phận về Hội Thừa Sai Paris.[1]
Trong bản báo cáo năm 1951, ông viết:[1]
Năm 1959, trong bản báo cáo cuối về giáo phận, ông viết:
Ngày 24 tháng 11 năm 1960, các giáo phận tông toà Việt Nam được nâng lên Giáo phận Chính toà.[2] Giáo phận Huế được nâng lên Tổng giáo phận, ông bàn giao giáo phận cho tân Tổng giám mục Phêrô Martinô Ngô Đình Thục. Toà Thánh thăng chức Tổng Giám mục hiệu toà Carpathos cho ông để ghi công. Ông vẫn muốn sống và làm việc tại Tổng giáo phận Huế, vì vậy ông về ở tại Trung tâm Thánh Mẫu La Vang...[2] Ông cũng tham dự Công đồng Chung Vaticanô 2 tại Vatican.[1]
Tháng 2 năm 1966, Tổng giám mục Urrutia đến ở Trụ sở truyền giáo dành riêng cho các thừa sai Hội Truyền giáo Hải Ngoại Paris tại Đông Hà (Quảng Trị). "mùa hè đỏ lửa 1972", ông vào Huế.[1]
Năm 1974, ông về Pháp thăm lại quê hương bạn bè. Khi đến Pháp ngày 05 tháng 4 năm 1975, ông về nhà truyền giáo cũ Montbeton, gần Montauban.[2] Ông dự định sẽ trở lại Việt Nam, nhưng xảy đến biến chuyển lớn ngày 30 tháng 4 năm 1975. Thế là ông phải ở lại Pháp vĩnh viễn.[1] Ông đã sống ở đó trong gần bốn năm, tương đối khỏe mạnh cho đến giữa năm 1978. Sau đó, ông sức khoẻ ông suy giảm. Ông đã mất gần như hoàn toàn mất trí nhớ.[2]
Ông qua đời ngày 5 tháng 1 năm 1979 tại Montbeton, thọ 78 tuổi, sau 50 năm phục vụ tại giáo phận Huế với 12 năm làm Giám mục Đại diện Tông Toà lãnh đạo giáo phận.[1]
Lễ tang ông được tổ chức ngày 21 tháng 1 cùng năm, do linh mục Etcharren cử hành.[2]