Kháng nguyên Carcinoembryonic (CAE) là một tập hợp các glycoprotein liên quan chặt chẽ với nhau tham gia trong quá trình kết dính tế bào. CEA thông thường được sản xuất trong mô đường tiêu hóa trong giai đoạn phát triển bào thai và ngừng sản xuất trước khi sinh. Do đó, CEA thường chỉ tồn tại ở một lượng rất nhỏ trong máu người lớn khỏe mạnh (khoảng 2-4 ng/mL).[1]. Tuy nhiên, nồng độ trong huyết thanh của nó có thể tăng trong một vài loại ung thư, nhờ đó có thể dùng nó như một dấu ấn ung thư bằng các xét nghiệm cận lâm sàng. Nồng độ CEA trong huyết thanh cũng có thể tăng ở người nghiện thuốc lá nặng.[2]
CEA là một glycoprotein bám màng glycosyl phosphatidyl inositol (GPI) mà dạng sialofucosylated có vai trò như chất bám L-selectin và E-selectin ở ung thư đại tràng, các chất quyết định sự lan tràn của các tế bào ung thư đại tràng.[3][4][5] Trong miễn dịch, chúng thuộc nhóm dấu ấnCD66. Các protein nàyy bao gồm CD66a, CD66b, CD66c, CD66d, CD66e, CD66f.
Xét nghiệm máu CEA không phải là một xét nghiệm đáng tin cậy để chẩn đoán hoặc sàng lọc sớm ung thư.[7] Phần lớn các loại ung thư không có nồng độ CEA cao ở giai đoạn sớm.[8]
Nồng độ CEA huyết thanh ở các bệnh nhân ung thư biểu mô đại trực tràng thường cao hơn người khỏe mạnh (khoảng trên 2.5 µg/L).[9] CEA chủ yếu được dùng để theo dõi quá trình điều trị ung thư đại trực tràng, xác định ung thư tái phát sau phẫu thuật, để phân giai đoạn hoặc chẩn đoán di căn qua nồng độ dịch sinh học.[10] Nồng độ CEA cũng tăng trong ung thư dạ dày, ung thư tụy, ung thư phổi, ung thư vú, và ung thư tuyến giáp thể tủy, cũng như một số trường hợp không ung thư như viêm đại trực tràng chảy máu, viêm tụy, xơ gan,[11]COPD, bệnh Crohn, suy giáp[12] cũng như người hút thuốc.[13] Nồng độ CEA có thể trở về bình thường sau khi phẫu thuật khối u thành công và sử dụng để theo dõi đặc biệt là ung thư đại trực tràng.[14]
Sự tăng nồng độ CEA bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố. Nó thay đổi ngược lại với phân độ u; khối u càng biệt hóa càng tiết nhiều CEA. CEA tăng nhiều hơn ở những khối u có di căn hạch và di căn xa so với những khối u tại chỗ và do đó có thể thể phản ánh giai đoạn u. Các khối u ở bên trái có xu hướng có nồng độ CEA cao hơn ở bên phải. Các khối u gây tắc ruột cũng có nồng độ CEA cao hơn. Các khối u lệch bội sản xuất nhiều CEA hơn những khối u lưỡng bội. Suy giảm chức năng gan làm tăng nồng độ CEA do gan là nơi chuyển hóa ban đầu của CEA.[15]
Vị trí trong cơ thể có nồng độ CEA cao có thể xác định bằng kháng thể đơn dòngarcitumomab.[16]
Kháng thể kháng CEA cũng thường được sử dụng trong hóa mô miễn dịch để xác định sự bộc lộ glycoprotein tế bào trong mẫu mô. Ở người trưởng thành, CEA bộc lộ ở các tế bào u (một số ác tính, một số lành tính)[cần dẫn nguồn] nhưng có liên quan đặc biệt với ung thư biểu mô tuyến như đại tràng, phổi, vú, dạ dày hay tụy.
^Konstantopoulos K, Thomas SN (2009). “Cancer cells in transit: the vascular interactions of tumor cells”. Annual Review of Biomedical Engineering. 11: 177–202. doi:10.1146/annurev-bioeng-061008-124949. PMID19413512.
^Thomas SN, Tong Z, Stebe KJ, Konstantopoulos K (2009). “Identification, characterization and utilization of tumor cell selectin ligands in the design of colon cancer diagnostics”. Biorheology. 46 (3): 207–25. doi:10.3233/BIR-2009-0534. PMID19581728.
^Duffy MJ, van Dalen A, Haglund C, Hansson L, Klapdor R, Lamerz R, Nilsson O, Sturgeon C, Topolcan O (tháng 4 năm 2003). “Clinical utility of biochemical markers in colorectal cancer: European Group on Tumour Markers (EGTM) guidelines”. European Journal of Cancer. 39 (6): 718–27. doi:10.1016/S0959-8049(02)00811-0. PMID12651195.
^Ballesta AM, Molina R, Filella X, Jo J, Giménez N (1995). “Carcinoembryonic antigen in staging and follow-up of patients with solid tumors”. Tumour Biology. 16 (1): 32–41. doi:10.1159/000217926. PMID7863220.
^Maestranzi S, Przemioslo R, Mitchell H, Sherwood RA (tháng 1 năm 1998). “The effect of benign and malignant liver disease on the tumour markers CA19-9 and CEA”. Annals of Clinical Biochemistry. 35 (Pt 1) (1): 99–103. doi:10.1177/000456329803500113. PMID9463746.
^Sajid KM, Parveen R, Durr-e-Sabih, Chaouachi K, Naeem A, Mahmood R, Shamim R (tháng 12 năm 2007). “Carcinoembryonic antigen (CEA) levels in hookah smokers, cigarette smokers and non-smokers”. JPMA. The Journal of the Pakistan Medical Association. 57 (12): 595–9. PMID18173042.
^Goldstein MJ, Mitchell EP (2005). “Carcinoembryonic antigen in the staging and follow-up of patients with colorectal cancer”. Cancer Investigation. 23 (4): 338–51. doi:10.1081/CNV-58878. PMID16100946.
^Cheng KT (2013). “99mTc-Arcitumomab”. Molecular Imaging and Contrast Agent Database (MICAD). Bethesda (MD): National Center for Biotechnology Information (US).
Bài viết này vẫn còn sơ khai. Bạn có thể giúp Wikipedia mở rộng nội dung để bài được hoàn chỉnh hơn.
Công tước Leto của Gia tộc Atreides – người cai trị hành tinh đại dương Caladan – đã được Hoàng đế Padishah Shaddam Corrino IV giao nhiệm vụ thay thế Gia tộc Harkonnen cai trị Arrakis.
Ngay từ đầu mục đích của Jesper chỉ là lợi dụng việc những đứa trẻ luôn thích đồ chơi, dụ dỗ chúng viết thư cho ông già Noel còn mình thì nhanh chóng đạt được mục tiêu bố đề ra và trở lại cuộc sống vô lo vô nghĩ ngày nào
Bầu trời vào ban đêm đưa lên không trung trên đài quan sát trên không lớn nhất thế giới - một máy bay phản lực khổng lồ được sửa đổi đặc biệt, bay ra khỏi California