Giám định pháp y hay Pháp y các hoạt động giám định trong lĩnh vực y khoa để phục vụ cho công tác pháp luật, phục vụ cho việc xét xử các vụ án với các hoạt động đặc trưng như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, mổ xác, xác định thương tật, tình trạng sức khỏe, các dấu hiệu thân thể bị xâm phạm, kiểm tra, xác định vật chứng, tang chứng.
Giám định pháp y là một ngành khoa học, nó sử dụng những thành tựu khoa học trong lĩnh vực y học, sinh học, hoá học, vật lý học, tin học... để đáp ứng những yêu cầu của pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự và dân sự thông qua hoạt động giám định khi được các cơ quan trưng cầu. Người làm công tác giám định này được gọi là giám định viên pháp y.
Thời Cổ đại, khi xét xử quan tòa chủ yếu dựa vào lời thề, tra tấn buộc phải thú tội và lời khai nhân chứng.
Sau này, nhu cầu đó ngày càng phải chính xác và khách quan hơn, để xử lý sao cho "đúng người, đúng tội, đúng pháp luật". Nhưng sơ khởi việc định tội căn cứ vào ý thức chung và kinh nghiệm thực tế của quan toà hay người đứng ra phân xử.
Trong xã hội văn minh hình thành một ngành khoa học là Pháp y học.
Ông Tổ nghề Y là Hippocrates (Ἱπποκράτης, 460 TCN- 370 TCN) đã từng có những nhận xét, tìm hiểu về thương tích và ngộ độc gây trong các vụ án. Trung Quốc cổ đại, vào thế kỷ IV TCN ở nước Ngụy (魏 國, 403 – 225 TCN) đã ban hành Pháp kinh 法经 nói đến pháp y được chép trong cuốn Tẩy oan tập lục 洗冤集录 của Tống Từ (宋慈, 1186-1249). Vào năm 44 trước Công nguyên, Julius Caesar (một vị tướng kiêm chính khách và viết văn người La Mã, 100-43 TCN) có lẽ là người đầu tiên đề xuất thuật ngữ "Pháp y". Người viết sách về độc học đầu tiên là bác sĩ và nhà thơ có uy tín người Hy Lạp là Nicander (Νίκανδρος ὁ Κολοφώνιος, 200 năm TCN).
Đến thời Cận đại, Pháp y dần được giảng dạy và sử dụng rộng rãi. Ambroise Paré (1510 - 1590), một bác sĩ phẫu thuật trong quân đội được xem là một trong những cha đẻ của phẫu thuật và pháp y bệnh lý hiện đại. Hai thế kỷ sau một số bài viết về pháp y bắt đầu xuất hiện của bác sĩ người Pháp Fodéré và chuyên gia y tế Đức Johann Peter Franck.
Ca điển hình đầu tiên về trình tự, thủ tục khám nghiệm diễn ra năm 1784 ở Lancaster, một thị trấn nằm trên bờ sông Lune thuộc nước Anh. Trong vụ này Cảnh sát đã kết tội John Toms giết Edward Culshaw bởi súng lục vì tìm thấy bột giấy ở miệng vết thương của nạn nhân và tờ báo rách trong túi Toms.
Ngay từ 1773 nhà hóa dược Thụy Điển là Carl Wilhelm Scheele (1742 -1786) đã nghĩ cách phát hiện oxit asen trong thi xác người chết nhưng độc chất học thực sự được phát triển bởi ông tổ là Valentin Rose (1736-1771) với phương pháp phát hiện các chất độc trong thành dạ dày của nạn nhân đưa vào ứng dụng từ 1806 bởi nhà hóa học người Anh là James Marsh (1794 -1846).
Trong thời hiện đại, từ khi con người phát minh ra máy ảnh (tiền thân là camera obscura thành chiếc máy ảnh cầm tay đầu tiên vào năm 1660 và hoàn thiện năm 1888 bởi hãng Eastman Dry Play and Film), máy ghi âm (bởi Thomas Alva Edison,1847 – 1931), kính hiển vi (bởi Antoni van Leeuwenhoek, 1632-1723) rồi kính hiển vi điện tử (ra đời năm 1938 tại Mỹ), kĩ thuật sắc ký (bởi Mikhail Semyonovich Tsvet, 1872–1919) vào năm 1903, máy vi tính (từ 1930 sau phát triển nhanh nhờ phát kiến của Gordon Earle Moore)... thì các phương tiện hiện đại này mau chóng được đưa vào sử dụng trong pháp y để điều tra tội phạm và thu được nhiều hiệu quả đặc biệt.
Sang Thế kỉ XX mở rộng ra các lĩnh vực khoa học tự nhiên... Ngày nay tất cả những thành tựu mới nhất của KHXH&NV, KHTN&CN đều được pháp y nghiên cứu, ứng dụng để phục vụ cho cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Hoạt động đặc trưng của giám định pháp y là khám nghiệm tử thi, mổ xác nhưng ngoài mổ xác, giám định xác chết, giám định pháp y có nhiều chuyên ngành chuyên sâu như y học phân tử, giám định thương tích trên người sống, giám định sức khỏe...[1]
Giám định pháp y được phân thành ba nội dung cơ bản gồm:
Đối tượng giám định pháp y bao gồm:
Giám định pháp y có thể nói là không thể thiếu trong một xã hội mà ở đó mọi người sống theo Hiến pháp và làm theo pháp luật, sức khỏe và nhân phẩm con người được pháp luật bảo vệ.[1] Giám định pháp y không những phục vụ cho cơ quan tố tụng, mà còn phục vụ giám định theo yêu cầu của cá nhân và tổ chức.[2] Giám định pháp y không những giám định đối với các trường hợp xâm hại đến tính mạng, sức khỏe nhân phẩm con người ở ngoài xã hội, mà ngay cả trong nghiệp vụ y tế, pháp y có nhiệm vụ tham mưu cho y tế địa phương khi có thưa kiện, khiếu nại liên quan đến công tác điều trị, khám chữa bệnh, ở cả lĩnh vực y tế tư nhân và nhà nước, báo cáo với y tế và các ngành chức năng về tình hình tội phạm, tai nạn lao động, giao thông, ngộ độc thực phẩm... Đặc biệt, pháp y có nhiệm vụ trong hiến ghép mô phủ tạng và hiến xác, theo quy định của pháp luật.[3]
Một trong những nhiệm vụ rất quan trọng của pháp y là giám định tỷ lệ tổn hại sức khỏe của thương tích và chấn thương nhằm bắt kẻ phạm tội phải có trách nhiệm với hành vi của mình, và người vô tội được minh oan, bồi thường thỏa đáng.[3]
Giám định pháp y thì không những ngành y tế mà các khác ngành cũng đều công nhận đây là mảng hết sức quan trọng không những trong y tế, mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình tố tụng giúp đảm bảo quyền lợi người dân, giữ gìn an ninh trật tự xã hội.[4]
Giám định pháp y có nhiều ý nghĩa gồm:
Ở Việt Nam, xã hội nước này thường mặc cảm với pháp y, nói đến là nghĩ đến nghề mổ xác[1] và hiện nay tất cả các tổ chức giám định pháp y trên toàn quốc đều lâm vào tình trạng thiếu người, trong khi các trường đại học y thì không có khoa đào tạo chuyên ngành riêng, sinh viên ra trường từ chối làm pháp y, bác sĩ được điều động sang cũng tìm mọi cách bỏ đi,[4] số các bác sĩ muốn vào công tác trong pháp y hầu như không có, những người làm lâu lại muốn bỏ nghề.[1]
Việt Nam hiện nay có Cả nước hiện có 37 trung tâm pháp y, 15 phòng pháp y và vẫn còn 11 tổ chức giám định pháp y. Tuy vậy, ngành y tế có quy định rõ ràng về vấn đề bảo vệ môi trường cho các cơ sở y tế, nhưng pháp y thì lại chưa có quy định tương tự, giám định pháp y vẫn luôn luôn gắn với cụm từ "con nuôi" của ngành y tế.[3] Một số địa phương cho rằng pháp y phục vụ cơ quan điều tra tố tụng, không liên quan gì đến chức năng nhiệm vụ của ngành y tế.[2]
Có những vụ án giám định viên phải mổ tại hiện trường, họ phải đối mặt với ô nhiễm (cả tinh thần, vật chất), ảnh hưởng tâm lý nặng nề, nhưng hầu như chính họ không được bảo vệ. Những người làm nghề pháp y vừa phải chịu trách nhiệm về kết quả giám định của mình, vừa chịu nhiều nguy hiểm, tiếp xúc nhiều độc hại, sức ép mà họ phải chịu đựng nặng nề: sức ép từ dư luận xã hội, sức ép từ người bị hại, từ thủ phạm, sức ép từ cả phía luật sư, tòa án, cơ quan tố tụng…[1]