Kornel Makuszyński ( phát âm tiếng Ba Lan: [ˈkɔrnɛl makuˈʂɨɲskʲi] ) sinh ngày 8 tháng 1 năm 1884 tại Stryj và mất ngày 31 tháng 7 năm 1953 tại Zakopane). Ông là nhà văn, nhà thơ, nhà viết chuyên mục, nhà phê bình sân khấu và nhà báo người Ba Lan, thành viên của Học viện Văn học Ba Lan. Trước Chiến tranh thế giới thứ hai, ông là một trong những nhà văn Ba Lan có các tác phẩm được đọc nhiều nhất, nổi tiếng nhất và có nhiều tác phẩm nhất. [1] Các tác phẩm văn học của ông chủ yếu về văn học thiếu nhi và thanh thiếu niên.[2][3] Ông được bầu làm thành viên của Viện Hàn lâm Văn học Ba Lan danh giá trong thời kỳ chiến tranh Ba Lan. [4]
Kornel Makuszyński
Sinh
8 tháng 1 năm 1884 Stryi , Galicia, Đế quốc Áo-Hung (nay là Stryi, Ukraine)
Mất
31 tháng 7 năm 1953 (69 tuổi) Zakopane, Ba Lan
Trường lớp
Đại học Lviv
Nghề nghiệp
Nhà văn, nhà thơ, nhà viết chuyên mục, nhà phê bình sân khấu và nhà báo
Ông sinh ngày 8 tháng 1 năm 1884 tại Stryj, là con trai duy nhất và là con thứ bảy của Ogonowska và Edward Makuszyński, một đại tá đã nghỉ hưu của quân đội Áo. Kornel mồ côi cha từ khi 10 tuổi. Trong hai năm Kornel ở Stryj, ông học xong năm thứ nhất trung học ở Stryj và kiếm sống bằng nghề dạy kèm. Sau đó, ông chuyển đến Przemyśl và học xong năm thứ hai trung học.
Kornel Makuszyński
Kornel Makuszyński, khoảng năm 1906
Năm 14 tuổi, ông bắt đầu làm thơ. Vào năm 1902, Makuszyński đã đăng bài thơ đầu tiên của mình trên tờ báo Słowo Polskie, từ năm 1904, ông là thành viên ban biên tập của tạp chí này và nhờ đó ông nhanh chóng trở thành một nhà phê bình sân khấu. Ông học ngôn ngữ và văn học tại Đại học Lviv (sau đó là Đại học Jan Kazimierz ở Lwów, Ba Lan) và ở Paris. Ông được sơ tán đến Kiev vào năm 1915, nơi ông điều hành Nhà hát Ba Lan và là chủ tịch của cộng đồng nhà văn và nhà báo Ba Lan. Năm 1918, ông chuyển đến Warsaw và trở thành một nhà văn.
Những cuốn sách dành cho trẻ em của ông, đặc biệt là bộ truyện về chú dê Koziołek Matołek (do Marian Walentynowicz minh họa), có sức ảnh hưởng lâu dài ở Ba Lan, cho dù hệ thống chính trị và vận mệnh của đất nước có thay đổi ra sao. Bộ truyện cũng đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác. Trong số đó, bộ truyện ở Israel là phổ biến nhất, nơi đây, những người nhập cư Do Thái gốc Ba Lan từ những năm 1920 và 1930 đã rất cố gắng dịch sang tiếng Do Thái để con cái họ biết đến bộ truyện này.
Makuszyński mất năm 1953 tại Zakopane, nơi ông sống từ năm 1945. Ông được chôn cất tại nghĩa trang Peksowe Brzysko ở Zakopane. Makuszyński có một bảo tàng mang tên ông được thành lập vào năm 1966 và nằm trong thành phố. [5]
1910 Rzeczy wesołe (Anioł, Rajska opowieść, Twórcy, Frazes, Filantropia, Miss Śmierć, Stary mąż, Ludzie tragiczni, Kobieta z sercem) – một bộ sưu tập hài hước
1910 Dusze z papieru – một bộ sưu tập các bài tiểu luận mô tả những thành tựu nghệ thuật của nhà hát Lviv.
1911 Zabawa w szczęście
1912 Szewc Kopytko i kaczor Kwak
1913 Awantury arabskie (Ósma podróż żeglarza Sindbada, O szlachetnej dziewicy i koniu, Morderstwo Harun ar Raszyda, Hassan i jego pięć żon, Mędrzec zza morza) – một bộ sưu tập gồm 5 câu chuyện hài hước và thu hút được sưu tầm từ những truyền thuyết và câu chuyện cổ tích của Trung Đông.
1914 Straszliwe przygody
1915 Perły i wieprze – một cuốn tiểu thuyết hài hước
1916 Bardzo dziwne bajki (Bajka o królewnie Marysi, o czarnym łabędziu i o lodowej górze, Szewc Kopytko i kaczor Kwak, O tym jak krawiec Niteczka został królem, Dzielny Janek i jego pies)
1917 Po mlecznej drodze
1919 Piosenki żołnierskie
1919 Słońce w herbie
1920 Radosne i smutne – một tuyển tập truyện ngắn
1925 Bezgrzeszne lata - hồi ký tự truyện
1925 Wycinanki
1927 Ponure Igraszki
1928 Król Azis – truyện ngắn
1928 O dwóch takich, co ukradli księżyc – powieść dla młodzieży; na jej podstawie nakręcono film fabularny i serial animowany
1929 Listy zebrane
1930 Przyjaciel wesołego diabła – tiểu thuyết dành cho giới trẻ; một bộ phim truyện và loạt phim hoạt hình đã được quay dựa trên tiểu thuyết này.
1932 Panna z mokrą głową – một cuốn tiểu thuyết dành cho giới trẻ; hai bộ phim và một loạt phim truyền hình đã được quay dựa trên tiểu thuyết này.
1933 Skrzydlaty chłopiec – một cuốn tiểu thuyết dành cho giới trẻ
1933 Mały chłopiec
1934 Uśmiech Lwowa
1935 Wyprawa pod psem – một cuốn tiểu thuyết dành cho giới trẻ
1935 Wielka Brama – một cuốn tiểu thuyết dành cho giới trẻ
1936 Złamany miecz
1937 Awantura o Basię – một cuốn tiểu thuyết dành cho giới trẻ; hai bộ phim và một loạt phim đã được quay dựa trên tiểu thuyết này.
1937 Nowe bajki tego roku
1937 Szatan z siódmej klasy – một cuốn tiểu thuyết dành cho giới trẻ; hai bộ phim và một loạt phim đã được quay dựa trên tiểu thuyết này.
1939 Za króla Piasta Polska wyrasta
1939 Kartki z kalendarza
1946 List z tamtego świata – một cuốn tiểu thuyết dành cho giới trẻ
1957 Szaleństwa panny Ewy – tiểu thuyết dành cho giới trẻ viết năm 1940; một bộ phim điện ảnh và một bộ phim truyền hình đã được quay dựa trên tiểu thuyết này.
Kornel Makuszyński
Văn bằng trao tặng Vòng nguyệt quế vàng của Học viện Văn học Ba Lan ngày 5 tháng 11 năm 1935 cho Kornel Makuszyński
Kornel Makuszyński
Mộ của Kornel Makuszyński ở Pęksowy Brzyzek ở Zakopane
Được phát triển bởi thành viên của Group iOS CodeVn có tên Lê Tí, một ứng dụng có tên CH Play đã được thành viên này tạo ra cho phép người dùng các thiết bị sử dụng hệ điều hành iOS có thể trải nghiệm kho ứng dụng của đối thủ Android ngay trên iPhone, iPad của mình